Chương trình con trong Pascal

From Wikiversity

Phần này do Thạc sỹ Nguyễn Văn Linh viết và phát hành theo giấy phép CC-BY

Đây là một phần của Ngôn ngữ Pascal

Khái niệm : chương trình con là một dãy lệnh mô tả một số thao tác nhất định và có thể được thực hiện ( được gọi ) từ nhiều vị trí trong chương trình (SGK tin học lớp 11 trang 91)

được quy định trong ngôn ngữ lập trình Pascal:

Procedure Ten_thu_tuc(Danh sách các tham số cùng với kiểu dữ liệu tương ứng)

Ví dụ:

Procedure SUB(X:real; Y:Integer; Var Z:Real; Var U:boolean);

Trong sự đặc tả này, tham số có tên đứng sau VAR biểu thị một kết quả hoặc một tham số có thể bị thay đổi. Cú pháp của sự đặc tả này trong Ada là: <s

  • Chương trình con có thể nhạy cảm với tiền sử (tự sửa đổi), vì vậy kết qủa của nó không chỉ phụ thuộc vào tham số được cho tại lần gọi đó mà còn phụ thuộc vào toàn bộ lịch sử các lần gọi trước đó. Nhạy cảm với tiền sử có thể do dữ liệu địa phương vẫn còn giữ lại giữa các lần gọi của chương trình con hoặc thông qua sự thay đổi mã riêng của nó (ít phổ biến hơn).

Cài đặt chương trình con[edit]

Các phép toán nguyên thuỷ được cài đặt bằng cách dùng cấu trúc dữ liệu và các phép toán được cung cấp bởi máy tính ảo bên dưới ngôn ngữ lập trình. Chương trình con biểu diễn một phép toán được xây dựng bởi người lập trình và do đó chương trình con được cài đặt bằng cách dùng cấu trúc dữ liệu và các phép toán được cung cấp bởi chính bản thân ngôn ngữ lập trình đó. Sự cài đặt được xác định bởi thân chương trình con, bao gồm cả việc khai báo dữ liệu cục bộ xác định cấu trúc dữ liệu được dùng cho chương trình con và các lệnh xác định hành động sẽ làm khi chương trình con thực hiện.

Sự khai báo và các lệnh thường được bao gói, người sử dụng chương trình con không thể truy xuất được tới dữ liệu cục bộ và các lệnh bên trong chương trình con. Người sử dụng chỉ có thể gọi chương trình con với một tập hợp các tham số và nhận lại các kết quả đã được tính toán. Cú pháp của Pascal đối với chương trình con là điển hình:

FUNCTION FN(x:REAL; y:INTEGER):REAL ; (Mô t)
VAR
m : ARRAY[1..10] OF REAL; (Khai báo các đối
n : INTEGER; tượng d liu cc b)
BEGIN
. (Dãy các lnh xác định
. hành động ca chương
. trình con)
END;

Thông thường trong chương trình con có thể có các chương trình con khác biểu thị các phép toán được định nghĩa bởi người lập trình dùng cho chỉ chương trình con chứa chúng. Những chương trình con "cục bộ" này được bao gói, nghĩa là chúng không thể được gọi tới từ bên ngoài chương trình con chứa chúng.

Kiểm tra kiểu cũng là một vấn đề quan trọng đối với chương trình con. Mỗi lần gọi chương trình con đòi hỏi các tham số có kiểu đúng như đã được xác định trong sự đặc tả chương trình con. Kiểu của kết quả được trả về của chương trình con cũng phải được biết đến. Vấn đề kiểm tra kiểu tương tự như đối với các phép toán nguyên thuỷ. Kiểm tra kiểu có thể được thực hiện một cách tĩnh trong quá trình dịch, nếu đã có sự khai báo kiểu cho các tham số và kết quả của mỗi một chương trình con. Mặt khác kiểm tra kiểu có thể là động trong quá trình thực hiện chương trình. Sự chuyển đổi kiểu ẩn các tham số để đổi chúng thành các kiểu đúng cũng có thể được cung cấp một cách tự động bởi sự cài đặt ngôn ngữ.

Cơ chế gọi chương trình con[edit]

Ðịnh nghĩa và kích hoạt chương trình con[edit]

Người lập trình viết một định nghĩa chương trình con trong chương trình. Thông qua việc thực hiện chương trình, nếu chương trình con được gọi thì một kích hoạt chương trình con (subprogram activation) được tạo ra. Khi sự thực hiện chương trình con kết thúc thì kích hoạt bị phá huỷ. Nếu có một lần gọi khác thì một kích hoạt mới sẽ được tạo ra. Như vậy từ một định nghĩa chương trình con, có nhiều kích hoạt có thể được tạo trong quá trình thực hiện chương trình. Sự định nghĩa dùng làm khuôn mẫu (template) cho việc tạo kích hoạt trong quá trình thực hiện.

Chú ý rằng sự định nghĩa là một sự diễn tả trong chương trình như nó đã được viết ra và do đó nó được biết đến trong quá trình dịch. Kích hoạt chương trình con chỉ có thể có trong quá trình thực hiện. Trong quá trình thực hiện, sự định nghĩa chỉ tồn tại trong dạng khuôn mẫu mà từ đó các kích hoạt có thể được tạo ra.

Cài đặt định nghĩa và kích hoạt chương trình con[edit]

Xét lại định nghĩa chương trình con trong Pascal:

program Chuongtrinhcon;
var
max = 20;
const
m : infone [1..max] OF REAL;
n : hihi;
biluaroi
n := MAX;
x := 2 * x + m[5];
......
END;

Sự dam dang này xác định các thành phần cần thiết cho một kích hoạt chương trình con:

  1. Bộ nhớ đối với các tham số, đối tượng dữ liệu x và y.
  2. Bộ nhớ cho kết quả hàm, đối tượng và biến n.
  3. Bộ nhớ cho các hằng trực kiện và các hằng, 20, 2 và 5.
  4. Bộ nhớ cho mã có thể thực hiện phát sinh từ các lệnh trong thân chương trình con.

Ðịnh nghĩa chương trình con cho phép các vùng nhớ này được tổ chức và các mã có thể thực hiện được xác định thông qua việc dịch. Kết quả của việc dịch là khuôn mẫu dùng để xây dựng mỗi một kích hoạt riêng tại thời gian chương trình con được gọi trong quá trình thực hiện.

Ðể xây dựng một kích hoạt chương trình con từ khuôn mẫu của nó, cái khuôn mẫu ban đầu có thể phải được sao chép vào trong vùng mới của bộ nhớ. Tuy nhiên thay vì sao chép hoàn toàn, nó được tách ra thành hai phần:

  1. Phần tĩnh, gọi là đoạn mã (code segment) bao gồm các mục 4 (các hằng) và 5 (các mã có thể thực hiện được) đã nói ở trên. Phần tĩnh không thay đổi trong quá trình thực hiện chương trình con và do thế một bản sao có thể được dùng cho tất cả các kích hoạt.
  2. Phần động, gọi là mẩu tin kích hoạt (Activation record) bao gồm các mục 1 (Các tham số), 2 (Kết quả hàm) và 3 (dữ liệu cục bộ) và cộng thêm 6 mục khác của dữ liệu ẩn như vùng nhớ tạm, điểm trở về, và sự tham khảo các biến không cục bộ. Phần động có cấu trúc giống nhau cho tất cả các kích hoạt nhưng nó chứa các giá trị dữ liệu khác nhau cho mỗi một kích họat. Do đó mỗi một kích hoạt cần thiết phải có một bản sao mẩu tin kích hoạt riêng của nó.

Ðối với mỗi chương trình con, một đoạn mã tồn tại thông qua sự thực hiện chương trình. Các mẩu tin kích hoạt được tạo ra và huỷ bỏ một cách động thông qua thực hiện mỗi lần chương trình con được gọi và mỗi lần nó kết thúc bởi RETURN.

Kích thước và cấu trúc của mẩu tin kích hoạt của chương trình con thông thường được xác định trong quá trình dịch, đó là trình biên dịch (compile) có thể xác định mẩu tin kích hoạt lớn như thế nào và vị trí của mỗi một phần tử trong đó. Ðể truy xuất đến các phần tử có thể sử dụng công thức tính địa chỉ cơ sở cộng độ dời như đã trình bày đối với mẩu tin bình thường.

Chương trình con chung[edit]

Sự đặc tả chương trình con thông thường liệt kê số lượng, thứ tự và kiểu dữ liệu của các tham số. Chương trình con chung (generic subprogram) là một chương trình con có một tên nhưng có nhiều định nghĩa khác nhau, được phân biệt bởi số lượng, thứ tự và kiểu dữ liệu của các tham số. Khái niệm về phép toán chung đã được đề cập trong chương II (phần mục đích của sự khai báo). Một khi phép toán hay chương trình con chung xuất hiện, vấn đề cơ bản đối với trình biên dịch là làm sao xác định được đúng ý nghĩa của nó trong một tập hợp nhiều ý nghĩa có thể có. Thông tin về đối số của phép toán hoặc tham số của chương trình con giúp chương trình dịch nhận biết ý nghĩa đích thực của chương trình con chung.,.

Truyền tham số cho chương trình con[edit]

Khái niệm truyền tham số[edit]

Truyền tham số là phương pháp chuyển giao dữ liệu giữa các đơn vị chương trình nhằm đạt được các kết quả khác nhau khi gọi thực hiện chương trình con. Tham số có hai loại là tham số hình thức và tham số thực tế.

Tham số hình thức là một loại đặc biệt của ÐTDL cục bộ trong chương trình con. Nó được xác định lúc định nghĩa chương trình con. Khi định nghĩa chương trình con, phải xác định một danh sách các tham số hình thức cùng với khai báo kiểu tương ứng.

Tham số thực tế là một ÐTDL được chia sẻ cho chương trình con bằng cách truyền trong lời gọi thực hiện chương trình con.

Sự tương ứng giữa tham số tham số thực tế và tham số hình thức[edit]

Khi một chương trình con được gọi cùng với một danh sách các tham số thực tế thì đòi hỏi phải có một sự tương ứng giữa các tham số hình thức và tham số thực tế. Sự tương ứng này nhằm để xác định tham số thực tế nào được truyền cho tham số hình thức nào. Có hai phương pháp để xác định sự tương ứng này: Tương ứng vị trí: Sự tương ứng giữa các cặp tham số thực tế và tham số hình thức đặt cơ sở trên sự tương ứng vị trí của chúng trong danh sách các tham số thực tế lúc gọi và danh sách các tham số hình thức trong định nghĩa chương trình con.

Hầu hết các ngôn ngữ đều dùng tương ứng vị trí và số lượng các tham số hình thức và tham số thực tế là bằng nhau do đó các cặp tương ứng là duy nhất. Tuy nhiên cũng có những ngôn ngữ cho phép lời gọi chương trình con không cần cung cấp đủ số lượng tham số thực tế.

Tương ứng tên: Tham số hình thức bắt cặp với tham số thực tế được chỉ định trong lời gọi chương trình con. Ví dụ trong Ada có lời gọi chương trình con như sau:

SUB(y => B, x => 27).

Trong đó tham số thực tế B bắt cặp với tham số hình thức y và tham số thực tế 27 bắt cặp với tham số hình thức x.

Các phương pháp truyền tham số[edit]

Nói chung một ngôn ngữ cung cấp nhiều phương pháp truyền tham số mà người lập trình có thể lựa chọn để xác định khai báo tham số hình thức lúc định nghĩa chương trình con và cung cấp các tham số thực tế lúc gọi thực hiện chương trình con.

Thí dụ :

Var m:integer;
Procedure P(a:integer);
    Begin
        a:= 20;
        writeln(m);
    end;
begin
    m:=10;
    P(m);
    writeln(m);
end.

Kết quả thực hiện chương trình đối với các phương pháp truyền tham số

Truyền bằng giá trị Truyền tham chiếu Truyền bằng giá trị-kết quả Truyền bằng kết quả Truyền bằng tên
1010 2020 1020 1020 2020

Các phương pháp truyền tham số chủ yếu bao gồm:

Truyền bằng giá trị (transmission by value)[edit]

  • Tham số hình thức là tham số chỉ vào (IN-only parameters), tức là chỉ nhận giá trị vào cho chương trình con, không có nghĩa vụ trả kết quả về cho chương trình gọi. Tham số hình thức được xem như là một biến cục bộ của chương trình con và được cấp phát ô nhớ riêng.
  • Tham số thực tế là một biểu thức (là một biến, một hằng, một hàm hoặc là một biểu thức thực sự).
  • Phương pháp thực hiện: Tại thời điểm gọi, giá trị của tham số thực tế được sao chép vào trong ô nhớ của tham số hình thức. Trong quá trình thực hiện chương trình con, mọi thao tác trên tham số hình thức là sự thao tác trên ô nhớ riêng của nó, không ảnh hưởng đến tham số trong thực tế.
  • Khi chương trình con kết thúc, sự thay đổi giá trị của tham số hình thức, không làm ảnh hưởng đến giá trị của tham số trong thực tế.

Truyền tham chiếu (transmission by reference)[edit]

  • Tham số hình thức là tham số vào ra (IN-OUT parameters), tức là nó có nghĩa vụ nhận giá trị vào cho chương trình con và trả kết quả về cho chương trình gọi. Tham số hình thức là một con trỏ.
  • Tham số thực tế phải là một biến, tức là một ĐTDL có ô nhớ.
  • Phương pháp thực hiện: Tại thời điểm gọi, con trỏ của tham số thực tế được sao chép cho tham số hình thức. Trong quá trình thực hiện chương trình con, mọi thao tác trên th con kết thúc, mọi thay đổi giá trị của tham số hình thức đều làm giá trị của tham số thực tế thay đổi theo.

Truyền bằng giá trị-kết quả (transmission by value-result)[edit]

  • Tham số hình thức là tham số vào ra (IN-OUT parameters) nhưng là một biến cục bộ của chương trình con và được cấp phát ô nhớ riêng.
  • Tham số thực tế phải là một biến, tức là một ĐTDL có ô nhớ.
  • Phương pháp thực hiện: Tại thời điểm gọi, giá trị của tham số thực tế được sao chép vào trong ô nhớ của tham số hình thức. Trong quá trình thực hiện chương trình con, mọi thao tác trên tham số hình thức là sự thao tác trên ô nhớ riêng của nó, không ảnh hưởng đến tham số thực tế.
  • Khi chương trình con kết thúc, giá trị cuối cùng của tham số hình thức được sao chép vào ô nhớ của tham số thực tế.

Truyền bằng kết quả (transmission by result)[edit]

  • Tham số hình thức là tham số chỉ ra (OUT-only parameters), tức là chỉ trả kết quả về cho chương trình gọi, không có nghĩa vụ nhận giá trị vào cho chương trình con. Tham số hình thức được xem như là một biến cục bộ của chương trình con và được cấp phát ô nhớ riêng.
  • Tham số thực tế phải là một biến, tức là một ĐTDL có ô nhớ.
  • Phương pháp thực hiện: Giá trị của tham số thực tế không được sử dụng trong chương trình con. Tham số hình thức có thể được gán trị như đối với một biến cục bộ. Trong quá trình thực hiện chương trình con, mọi thao tác trên tham số hình thức là sự thao tác trên ô nhớ riêng của nó, không ảnh hưởng đến tham số thực tế.
  • Khi chương trình con kết thúc, giá trị cuối cùng của tham số hình thức được sao chép vào ô nhớ của tham số trong thực tế.

Truyền bằng tên (transmission by name)[edit]

  • Tham số hình thức là tham số vào ra (IN-OUT parameters), nó có nghĩa vụ nhận giá trị vào cho chương trình con.
  • Tham số thực tế phải là một biến, tức là một ĐTDL có ô nhớ.
  • Phương pháp thực hiện: Khi chương trình con được gọi, các "tham số hình thức" trong thân chương trình con sẽ được thay thế trực tiếp bằng các "tham số thực tế" tương ứng với các đối số được truyền vào chương trình.
  • Khi chương trình con kết thúc, giá trị của tham số thực tế sẽ thay đổi thông qua các phương thức trong thân chương trình con.