Địa lí 9/Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển – đảo

From Wikiversity

Biển và đảo nước ta[edit]

Vùng biển nước ta[edit]

– Việt Nam là một quốc gia có đường bờ biển kéo dài 3260 km và một vùng biển rộng khoảng 1 triệu km², là một phần của biển Đông bao gồm: Vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

– Cả nước có 28 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương giáp biển.

– Trong biển có hơn 4000 đảo lớn nhỏ chia thành 2 nhóm: Đảo ven bờ và đảo xa bờ.

+ Hệ thống đảo ven bờ: Chiếm khoảng hơn 3000 đảo, phân bố tập trung nhất ở vùng biển của các tỉnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hoà, Kiên Giang.

Một số đảo ven bờ có diện tích khá lớn như: Phú Quốc, Cát Bà và có số dân khá đông như: Phú Quốc, Cái Bầu, Phú Quý, Lý Sơn, Cát Bà, Côn Đảo,..

+ Các đảo xa bờ: đảo Bạch Long Vĩ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Phát triển tổng hợp kinh tế biển[edit]

Khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản[edit]

Đây là một ngành có tiềm năng rất lớn ở nước ta: Với bờ biển dài 3260 km và vùng viển đặc quyền về kinh tế rộng hơn 1 triệu km², số lượng giống loài hải sản lớn, trong đó có một số loài cá có giá trị kinh tế cao.

Diện tích nước lợ khá lớn khoảng 619000 ha mặt nước lợ phân bố từ Bắc và Nam. Các vùng này có ý nghĩa lớn về nuôi trồng hải sản.

Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành hải sản không ngừng được cải thiện (tàu thuyền lớn, cơ sở chế biến được chú ý nhất)

  • Tình hình phát triển

Từ lượng hải sản nước ta khoảng 4 triệu tấn, khả năng đánh bắt khoảng 1,9 triệu tấn/năm, từ năm 2000 đến nay sản lượng đánh bắt vượt 2 triệu tấn/năm và chủ yếu là đánh bắt ở ven bờ.

  • Khó khăn

– Tài nguyên thuỷ hải sản có giới hạn và hiện nay đang cạn kiệt nhất là vùng biển ven bờ.

Do đó việc phát triển đánh bắt hải sản xa bờ và đẩy mạnh nuôi trồng hải sản xa bờ và đẩy mạnh nuôi trồng hải sản trên biển, ven biển, ven đảo là những yêu cầu bức thiết của ngành thuỷ hải sản.

– Nghề khơi (đánh bắt xa bờ) đòi hỏi cần có nhiều vốn, phương tiện kỹ thuật hiện đại và lao động có tay nghề cao. Do đó trong điều kiện nước ta hiện nay việc chuyển đổi lao động thủ công và tàu thuyền nhỏ cho phù hợp với nghề khơi còn rất khó khăn.

– Nuôi trồng: Môi trường sinh thái bị phá vỡ, tài nguyên cạn kiệt, cơ sở khoa học kỹ thuật cho nuôi trồng thuỷ sản còn thiếu.

– Công nghiệp chế biến nói chung phát triển chậm chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn thuỷ hải sản xuất khẩu còn ở dạng nguyên liệu thô, do đó hiệu quả kinh tế thấp.

Du lịch biển – đảo[edit]

– Tài nguyên du lịch biển rất phong phú từ Bắc vào Nam, do ven biển có khoảng 120 bãi cát rộng, phong cảnh đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng các khu  du lịch nghỉ dưỡng.

– Nhiều đảo ven bờ có phong cảnh kỳ thú hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là Vịnh Hạ Long.

Tình hình phát triển: Hiện nay có nhiều trung tâm du lịch biển đa dạng phát triển rất nhanh thu hút rất nhiều khách trong và ngoài nước. VD: Vịnh Hạ Long, Đồ Sơn, Cửa Lò, Lăng Cô, Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu, Đảo Phú Quốc.

  • Khó khăn

– Hoạt động du lịch biển chưa đa dạng

– Một số vùng biển ven bờ hiện nay có nguy cơ bị ô nhiễm.

Khai thác và chế biến khoáng sản biển[edit]

  • Muối biển: Nguồn muối vô tận, nghề làm muối phát triển dọc ven biển từ Bắc vào Nam nhất là ven biển Nam Trung Bộ (VD: Sa Huỳnh, Cà Ná) sản lượng khoảng 630 nghìn tấn/năm (gồm cả muối ăn và muối công nghiệp)
  • Ti tan: Dọc theo bờ biển có nhiều bãi cát chứa oxit titan có giá trị xuất khẩu.
  • Cát trắng: Là nguyên liệu cho công nghiệp thuỷ tinh pha lê có nhiều ở đảo Tân Hải (Quảng Ninh) và Cam Ranh (Khánh Hoà) chủ yếu để xuất khẩu sang Nhật, Đài Loan, Philippin và Hàn Quốc.
  • Dầu mỏ và khí đốt: Là nguồn khoáng sản quan trọng nhất ở vùng thềm lục địa, phân bố trong các bể trầm tích (bể trầm tích sông Hồng khoảng 1 tỷ tấn, bể trầm tích Đồng Bằng Sông Cửu Long khoảng 2 tỷ tấn, bể Nam Côn Sơn khoảng 3 tỷ tấn,…) hiện nay mỏ dầu Bạch Hổ thuộc bể Cửu Long được xem là mỏ dầu lớn nhất Việt Nam.

– Ngoài dầu, Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng trên 3 nghìn tỷ m³.

– Hiện nay dầu khí là ngành kinh tế mũi nhọn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

– Ngành công nghiệp hoá dầu cũng hình thành với việc xây dựng các nhà máy lọc dầu, các cơ sở hoá dầu để sản xuất chất dẻo, tơ sợi tổng hợp, cao su tổng hợp.

– Ngành công nghiệp chế biến khí đốt bước đầu phục vụ cho sản xuất  điện, sản xuất phân đạm sau đó chuyển sang chế biến khí công nghệ cao, kết hợp xuất khẩu khí tự nhiên và khí hoá lỏng.

Phát triển tổng hợp giao thông vận tải biển[edit]

– Nước ta nằm gần nhiều tuyến đường biển quốc tế quan trọng.

– Ven biển nhiều vũng vịnh nước sâu để xây dựng các hải cảng, một số cửa sông cũng thuận lợi cho việc xây dựng hải cảng, do đó giao thông biển trong nội địa và quốc tế đều có điều kiện phát triển.

– Hiện nay cả nước có hơn 90 cảng biển lớn nhỏ, lớn nhất là cảng Sài Gòn, hệ thống cảng biển đang dần từng bước hiện đại hoá để nâng cao năng suất.

Đội tàu biển quốc gia được tăng cường mạnh mẽ, cả nước hình thành 3 cụm đóng tàu lớn ở Bắc Bộ – Trung Bộ – Nam Bộ để tạo bước phát triển nhanh của ngành đóng tàu Việt Nam.

Bảo vệ tài nguyên và môi trường biển đảo[edit]

Sự giảm sút tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển đảo[edit]

  • Hiện trạng

–  Diện tích rừng ngập mặn trong những năm gần đây giảm nhanh

– Diện tích các rạn san hô trong 30 năm trở lại đây bị mất đi rất nhiều.

VD: Vùng Cát Bà – Hạ Long mất khoảng 30%, bờ biển Khánh Hoà giảm hàng chục lần.

– Một số loài sinh vật biển có nguy cơ tuyệt chủng như đồi mồi, ngọc trai, hải sâm, bào ngư,… Một số loài đang giảm dần mức độ tập trung, các loại cá quý như ngừ, cá ngừ, cá thu, … đánh bắt được có kích thước ngày càng nhỏ

– Ô nhiễm môi trường biển có xu hướng gia tăng rõ rệt làm cho chất lượng nhiều vùng biển của nước ta bị giảm sút, nhất là ở các vùng cửa sông và các cảng biển.

Các phương hướng chính để bảo vệ tài nguyên và môi trường biển[edit]

Nước ta đã tham gia những cam kết quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường biển. Chính phủ cũng đưa ra những kế hoạch hành động quốc gia về bảo vệ tài nguyên môi trường biển. Sau đây là một số phương hướng chính:

– Điều tra, đáng giá tiềm năng sinh vật tại các vùng biển sâu. Đầu tư để chuyển hướng khai thác từ vùng biển ven bờ sang vùng nước sâu xa bờ.

– Bảo vệ rừng ngập mặn hiện có, đồng thời đẩy mạnh các chương trình trồng rừng ngập mặn.

– Bảo vệ rạn san hô ngầm ven biển và cấm khai thác san hô dưới mọi hình thức.

– Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

– Phòng chống ô nhiễm biển bởi các yếu tố hoá học, đặc biệt là dầu mỏ.

Tham khảo[edit]

  • SGK Địa lí 9 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam (tái bản lần thứ mười lăm – 2020).