Lịch sử 9/Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 – 1975)

From Wikiversity

Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – văn hóa, ra sức chi viện cho miền Nam[edit]

Như nội dung đã có sẵn, mời bạn đi đến trang sau để đọc và tham khảo: Lịch sử 9/Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước (1965 – 1973).

Miền Nam đấu tranh chống “bình định – lấn chiếm” tạo thế và lực, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam[edit]

Tình hình[edit]

– Sau Hiệp Định Pari 1973, Mĩ để lại hai vạn cố vấn, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn.

– Chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định Pari, mở những cuộc hành quân “Bình định – lấn chiếm" vùng giải phóng.

Miền Nam chống “bình định lấn chiếm”[edit]

– Tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 21, nhận định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu; xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; khẳng định con đường cách mạng bạo lực, nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao.

– Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, từ cuối năm 1973, quân và dân miền Nam đã chủ động mở các cuộc tiến công, trọng tâm là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Quân ta giành thắng lợi vang dội ở Đường 14 – Phước Long (6-1-1975). Trận trinh sát chiến lược Phước Long cho thấy rõ sự suy yếu của quân đội Sài Gòn và khả năng can thiệp của Mĩ là rất hạn chế.

Giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc[edit]

Chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam[edit]

– Hội nghị Bộ Chính trị trung ương Đảng (mở rộng) cuối năm 1974 – đầu năm 1975 đề ra chủ trương, kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 – 1976.

– Hội nghị cũng nhấn mạnh: nếu thời cơ chiến lược đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975, cần phải tranh thủ thời cơ đánh nhanh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975[edit]

Chiến dịch Tây Nguyên (4-3 đến 24-3-1975)[edit]

– Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng ở miền Nam.

– Đây là nơi địch có sơ hở trong chiến lược phòng ngự: do địch nhận định sai hướng tiến công của ta, địch ít chú ý phòng thủ Tây Nguyên, mà chú trọng vùng xung quanh Sài Gòn và khu vực Huế – Đà Nẵng. Lực lượng địch ở Tây Nguyên có Quân đoàn 2, nhưng phải chia ra chiếm giữ nhiều vị trí. Địch ở Tây Nguyên bố phòng sơ hở, chú trọng Kon Tum, không chú ý phòng thủ Buôn Ma Thuột.

+ Là nơi có nhiều lợi thế: địa hình thuận lợi cho việc mở chiến dịch tiến công lớn, có cơ sở hậu cần vững mạnh, đồng bào Tây Nguyên rất trung thành với cách mạng.

– Diễn biến:

+ Ngày 4-3-1975, quân ta đánh nghi binh ở Plây-ku và Kon Tum nhằm thu hút địch vào hướng đó.

+ Ngày 10-3-1975, ta mở cuộc tấn công vào Buôn Ma Thuột nhưng không thành.

+ Sau hai đòn đau nói trên, hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn.

+ Ngày 14-3-1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên, về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đến ngày 24-3-1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn được giải phóng.

– Ý nghĩa:

+ Mở ra quá trình sụp đổ hoàn toàn của quân đội Sài Gòn.

+ Chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới: từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Chiến dịch Huế – Đà Nẵng (21-3 đến 29-3-1975)[edit]

– Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh và thuận lợi, ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị có quyết định kịp thời kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên là mở các chiến dịch giải phóng Huế và Đà Nẵng.

– Diễn biến:

+ Phát hiện địch co cụm ở Huế, ngày 21-3-1975, quân ta chặn đánh các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây thành phố Huế. Ngày 25-3, quân ta tiến vào cố đô Huế, đến hôm sau thì giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên. Cùng thời gian này, ta tổ chức tiến công, tiêu diệt địch ở nhiều vị trí ở phía Nam Đà Nẵng như Tam Kỳ, Chu Lai, Quảng Ngãi,…, đẩy Đà Nẵng vào thế bị cô lập.

+ Hơn 10 vạn địch bị dồn về Đà Nẵng trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Sáng ngày 29-3, quân ta từ ba phía bắc, tây, nam tiến vào thành phố, 3 giờ chiều ta giải phóng toàn bộ Đà Nẵng.

+ Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4, các tỉnh còn lại ở miền Trung, Nam Tây Nguyên và một số tỉnh Nam Bộ nổi dậy, giành được quyền làm chủ.

– Ý nghĩa: Chiến thắng Huế – Đà Nẵng đã gây nên tâm lý tuyệt vọng trong chính quyền Sài Gòn, đưa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của nhân dân ta tiến lên một bước mới với sức mạnh áp đảo.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (9-4 đến 2-5-1975)[edit]

– Sau thắng lợi của các đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”; quyết định mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào Sài Gòn – Gia Định; nhấn mạnh: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất, giải phóng miền Nam trước mùa mưa”. Ngày 14-4-1975, chiến dịch Sài Gòn – Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

– Diễn biến:

+ 17h ngày 26-4, năm cánh quân với lực lượng là 5 quân đoàn và tương đương quân đoàn, nhanh chóng vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch.

+ 10h45 phút ngày 30-4-1975, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập bắt toàn bộ Chính phủ Trung ương Sài Gòn, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

+11h30 phút (30-4) lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

– Cùng thời gian trên, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại tiến công và nổi dậy, theo phương thức “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Đến ngày 2-5-1975, Châu Đốc là tỉnh cuối cùng ở miền Nam được giải phóng.

– Ý nghĩa

+ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta giải phóng các tỉnh còn lại ở Nam Bộ.

+ Tạo thời cơ cho Lào và Campuchia giải phóng đất nước.

Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 – 1975)[edit]

Ý nghĩa[edit]

– Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống Mĩ, cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân – đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc.

– Mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.

– Đã tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc.

– “Mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

Nguyên nhân thắng lợi[edit]

– Có sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, với tư tưởng chiến lược tiến công, phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết hợp đấu tranh quân sự – chính trị – ngoại giao.

– Nhân dân giàu lòng yêu nước, đoàn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

– Có hậu phương miền Bắc, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.

– Có sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của ba dân tộc Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở trên thế giới, kể cả nhân dân Mĩ.

Tham khảo[edit]

  • SGK Lịch sử 9 – NXB Giáo dục Việt Nam, tái bản lần thứ mười lăm.