Lịch sử 9/Phong trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

From Wikiversity

Mặt trận Việt Minh ra đời (19/5/1941)[edit]

Hoàn cảnh[edit]

- Thế giới: Phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô, Nhật chuẩn bị chiến tranh Thái Bình Dương.

- Trong nước: nhân dân chịu 2 tầng áp bức Nhật – Pháp.

=> Trước tình hình ngày càng khẩn trương, Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội Nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, từ 10 đến 19-5-1941 tại Pác Bó (Cao Bằng).

- Hội nghị có những nhận định và chủ trương như sau:

+ Nhiệm vụ hàng đầu giải phóng dân tộc khỏi ách Pháp –Nhật.

+Tạm gác khẩu hiệu: "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" thay bằng khẩu hiệu: "tịch thu ruộng đất của đế quốc,Việt gian chia cho dân cày, giảm tô, chia lại ruộng công".

+ Thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là Hội Cứu quốc … Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào cả nước chống Nhật.

- 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập

Hoạt động của Mặt trận Việt Minh từ tháng 6-1941 đến 3-1945[edit]

a. Xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang khởi nghĩa

- Ở căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai: thống nhất các đội du kích thành Cứu Quốc Quân và phát động chiến tranh du kích, sau đó phân tán nhỏ để gây cơ sở trong quần chúng tại Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.

- Ở căn cứ Cao Bằng là nơi tiến hành xây dựng các Hội Cứu Quốc sớm nhất. Đến năm 1942, khắp 9 châu đều có Hội Cứu Quốc. Ủy ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã được thành lập.

- Năm 1943, đã có 19 ban xung phong “Nam tiến” để liên lạc với căn cư địa Bắc Sơn –Vũ Nhai và phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.

- Ở các nơi khác: Đảng tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào mặt trận cứu nước. Báo chí của Đảng phát triển phong phú.

b. Tiến lên vũ trang tranh đấu

- Tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân "Sắm vũ khí đuổi thù chung".

- Theo chỉ thị của Bác Hồ, ngày 22-12-1944 đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, 2 ngày sau đội đã hạ đồn Phay Khắt – Nà Ngần; quần chúng phấn khởi, quân địch hoang mang.

=> Như vậy đã củng cố và mở rộng căn cứ Cao –Bắc- Lạng

- 5-1945 hai đội Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.

Cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945[edit]

Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945)[edit]

+ Từ khi Nhật vào Đông Dương (9/1940), Nhật và Pháp hòa hoãn với nhau, nhưng đó chỉ là sự hòa hoãn tạm thời, vì hai nước đế quốc không thể chung một xứ thuộc địa.

+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến và Đức. Quân Anh – Mỹ giải phóng nước Pháp, rồi tiếp tục tiến công vào nước Đức từ phía Tây. Ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. Sau khi Mỹ chiếm lại Phi-lip-pin, đường biển của Nhật đi xuống các căn cứ phía nam bị cắt đứt, chỉ còn duy nhất đường bộ qua Đông Dương. Vì thế, Nhật cần độc chiếm Đông Dương bằng mọi giá.

+ Sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, lực lượng Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào đánh Nhật, thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị của mình như trước tháng 9/1940.

+ Để trừ hậu họa bị đánh sau lưng và giữ Đông Dương làm cầu nối đi từ Trung Quốc xuống các căn cứ phía nam, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương.

+ Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt biện pháp nhằm củng cố quyền thống trị của chúng ở Đông Dương.

+ Ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Từ Sơn (Bắc Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; chủ trương “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”, đồng thời sẵn sàng chuyển quan hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.

Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945[edit]

a. Chỉ thị của Đảng

- Ban thường vụ Trung Ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định kẻ thù chính là phát xít Nhật. Đảng quyết định phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa.

b. Khởi nghĩa từng phần (Cao trào kháng Nhật)

- Từ giữa tháng 3-1945, cách mạng chuyển sang cao trào đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận.

- Ở Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc Quân giải phóng hàng loạt các châu, xã, tổng, thành lập chính quyền nhân dân.

- Ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ nổi dậy thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức du kích Ba Tơ.

- Phong trào quần chúng lên cao khắp trong nước đấu tranh với khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Nhiều cuộc đánh chiếm kho thóc biến thành cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh.

- Hội nghị quân sự Bắc Kỳ (4-1945) quyết định thành lập Việt Nam giải phóng quân, mở trường đào tạo cán bộ, xây dựng căn cứ, Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ cũng được thành lập .

- Khu giải phóng Việt Bắc ra đời (4-6-1945), Ủy ban lâm thời khu giải phóng lâm thời được thành lập. Khu giải phóng là căn cứ địa của cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam mới. Như vậy, không khí tiền khởi nghĩa lan tràn khắp cả nước.

Tham khảo[edit]

  • SGK Lịch sử 9 (trang 86, 87, 88, 89, 90, 91) - NXB Giáo dục Việt Nam ; Tái bản lần thứ mười lăm.