Đông y

From Wikiversity

Đông y hay y học cổ truyền Trung Quốc là một nhánh của y học cổ truyền dựa trên hơn 3.500 năm hành nghề y học Trung Quốc bao gồm nhiều hình thức khác nhau của thảo dược, châm cứu, trị liệu bằng cạo gió, xoa bóp, nắn xương, khí công và liệu pháp ăn kiêng.

Đông y là một bộ môn khoa học nghiên cứu về y học ở thời cổ đại Trung quốc vẩn còn thịnh hành và sử dụng cho đến nay. Lý luận Đông y dựa trên nền tảng triết học Trung Quốc học thuyết âm dương, học thuyết ngũ hành. Đông y quan niệm mọi thứ bệnh đều do "âm dương mất cân bằng". Khi âm dương, ngũ hành cân bằng thì cơ thể khỏe mạnh. Cho nên, việc chữa bệnh nhằm lập lại trạng thái cân bằng âm dương trong cơ thể.

Các học thuyết của y học Trung Quốc bắt nguồn từ các cuốn sách như Hoàng đế nội kinh (黄帝内经) và Thương hàn luận (伤寒论), cũng như trong các quan niệm vũ trụ học như âm dương và ngũ hành. Bắt đầu từ những năm 1950, những quan niệm này đã được chuẩn hóa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm cả những nỗ lực để tích hợp chúng với các quan niệm hiện đại về giải phẫu và bệnh lý. Trong những năm 1950, chính phủ Trung Quốc đã thúc đẩy một hình thức Đông y được hệ thống hóa.

Các quy luật căn bản trong học thuyết âm dương[edit]

Mọi sự vật hiện tượng luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh phát triển, tiêu vong được gọi là học thuyết âm dương.

Âm Dương tương tác Ý nghỉa
1. Âm dương đối lập Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt của âm dương. Ví dụ: ngày và đêm, nước và lửa, hứng phấn và ức chế

2. Âm dương hỗ căn

Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau (để phát triển). Hai mặt âm và dương tuy đối lập nhưng phải nương tựa vào nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của một sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển. Ví dụ: có đồng hoá thì mới có dị hoá, không có đồng hoá thì dị hoá cũng không thực hiện được, có số âm mới có số dương, hứng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.

3. Âm dương tiêu trưởng

Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển. Quy luật này nói nên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn nhau giữa âm và dương. Ví dụ: chuyển hoá khí hậu 4 mùa. Quy luật này có các trạng thái của vận động sau:
– Âm tiêu dương trưởng (lạnh giảm và nóng tăng)
– Dương tiêu âm trưởng (nóng giảm và lạnh tăng)
Dương cực sinh âm và âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt và nhiệt cực sinh hàn. Ví dụ trong quá trình phát triển của bệnh tật. Bệnh thuộc phần dương (sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (mất nước), hoặc bệnh tại phần âm (mất nước, điện giải, mất máu) ảnh hưởng phần dương (gây trụy mạch, hạ huyết áp, choáng gọi thoát dương).

4. Âm dương bình hành

Hai mặt âm dương tuy đối lập, vận động không ngừng nhưng luôn luôn lập lại được thế thăng bằng, quân bình giữa hai mặt. Thăng bằng của hai mặt âm dương nói nên mâu thuấn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.

Từ 4 quy luật trên của học thuyết âm dương, trong y học khi vận dụng người ta thấy được một số phạm trù sau (3 phạm trù):

Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương[edit]

Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong một điều kiện cụ thể nào đó có tính chất tương đối. Ví dụ tuyệt đối hàn thuộc âm đối lập nhiệt thuộc dương. Tương đối: lương thuộc âm đối lập ôn thuộc dương. Trên lâm sàng: sốt là nhiệt thuộc dương nhưng nếu sốt cao thuộc lý dùng thuốc hàn, nếu sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương)

Trong âm có dương, trong dương có âm[edit]

Âm và dương có quan hệ hỗ căn, nương tựa vào nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển. Ví dụ: sự phân chia thời gian trong ngày (24h): ban ngày thuộc dương, nhưng từ 6 – 12 h trưa là phân dương trong dương, từ 12 – 18h là phần âm trong dương; ban đêm thuộc âm, nhưng từ 18 – 24h là phần âm trong âm, từ 0 – 6h là phần dương trong âm.

Trên lâm sàng thấy khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt thì tránh cho ra mồ hôi nhiều vì gấy mất nước và điện giải.
Triệu chứng bệnh thì có triệu chứng của hàn và của nhiệt, hư và thực cùng xuất hiện.
Về cấu trúc cơ thể thì tạng thuộc âm – phủ thuộc dương, nhưng trong tạng và phủ lại có cả âm và dương, như tạng can có can âm và can dương,...

Bản chất và hiện tượng[edit]

Thông thường thì bản chất phải phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất của bệnh: bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.

Nhưng có khi bản chất và hiện tượng không phù hợp với nhau, hiện tượng này gọi là sự “thật giả hay chân giả”, trên lâm sàng khi chẩn đoán bệnh cần phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đùng nguyên nhân bệnh. Ví dụ: bệnh truyền nhiễm gây chứng sốt cao (chân nhiệt), nhưng do tình trạng nhiễm độc biến chứng gây trụy mạch ngoại biên làm cho chân tay lạnh, vã mồ hôi lạnh giả hàn), trường hợp này phải dùng thuốc mát để điều trị.

Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn), gây mát nước nhiều và mất điện giải gây nên tình trạng nhiễm độc thần kinh, xuất hiện các triệu chứng co giật, sốt (giả nhiệt), trường hợp này dùng thuốc ấm nóng để điều trị nguyên nhân bệnh.

Ứng dụng học thuyết âm dương trong y học[edit]

Về cấu tạo của cơ thể và sinh lý[edit]

  • Âm bao gồm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, bên trong, phía dưới. thần kinh thực vật (ức chế),...
  • Dương bao gồm: phủ, kinh dương, khí, phần lưng, phía trên, thần kinh động vật,...
  • Tạng thuộc âm, do trong âm có dương và ngược lại nên ta có bảng sau:
Tạng Âm Dương
Phế Phế âm Phế khí
Thận Thận âm Thận dương
Can Can huyết Can khí
Tâm Tâm huyết Tâm khí
Tỳ Tỳ âm Tỳ dượng
CN sinh lý Vật chất và dinh dương Hoạt động cơ năng

2. Về quá trình phát sinh và phát triển bệnh[edit]

Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng và thiên suy:

Hội chứng Thiên thắng Dương thắng gây chứng nhiệt (sốt, mạch nhanh, khát nước, phân táo, nước tiểu đỏ, mạch sác,…
Âm thắng gây chứng hàn (người lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng, nước tiểu trong,…
Hội chứng Thiên suy Dương hư: các trường hợp lão suy, hội chứng hứng phấn thần kinh giảm (ức chế)
Âm hư: mất nước điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm (hứng phân)

Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt âm dương: bệnh tại phần dương ảnh hưởng đến phần âm (dương thắng tắc âm bệnh), ví dụ sốt cao có thể gây mất nước; bệnh tại phần âm ảnh hưởng đến phần dương (âm thắng tắc dương bệnh), ví dụ ỉa chảy, nôn mửa kéo dài gây mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh gây ra chứng sốt, co giật và có thể gây trụy mạch thoát dương

Sự mất thăng bằng âm dương gây ra các chứng bệnh ở những vị trí khác nhau tùy theo vị trí đó thuộc về phần âm hay dương:

  • Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương thuộc biểu, thuộc nhiệt.
  • Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
  • Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, nước tiểu đỏ,…
  • Dương hư sinh ngoại hàn: sợ lạnh, chân tay lạnh vì phần dương khí bên ngoài bị giảm sút.

Về chẩn đoán bệnh[edit]

Dựa vào tứ chẩn mục đích khai thác các triệu chứng bệnh và căn cứ vào bát cương để bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ kinh lạc,…

Chẩn đoán Đông y dùng 4 phương pháp chẩn bệnh sau:

  1. Vọng chẩn (quan sát bệnh nhân và hoàn cảnh)
  2. Văn chẩn (lắng nghe âm thanh từ thể trạng và tâm sự của bệnh nhân)
  3. Vấn chẩn (hỏi bệnh nhân và người nhà những điều liên quan)
  4. Thiết chẩn (khám bằng tay và dụng cụ) để xác định bệnh trạng

Chẩn đoán Đông y dùng 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế trung nhất của người bệnh.

Trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương; thường bệnh ở biểu là thực, nhiệt thuộc về dương; bệnh ở lý là hàn, là hư thuộc về âm.

Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh[edit]

  • Chữa bệnh là điều hòa lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tùy theo tình trạng hư – thực, hàn – nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau như châm cứu, thuốc, xoa bóp, khí công,…
  • Về thuốc: được chia thành 2 loại:Thuốc lạnh, mát (hàn lương) thuộc âm dùng chữa bệnh thuộc dương. Thuốc nóng, ấm (nhiệt ôn) thuộc dương dùng để chữa bệnh hàn thuộc âm.
  • Về châm cứu: bệnh nhiệt dùng châm, hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, thực thì tả. Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) dùng các huyệt du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) dùng các huyệt mộ ở vùng ngực, bụng (thuộc âm), tuân theo nguyên tắc "theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương".

Danh y cổ đại[edit]

  1. Thần nông[1]
  2. Hoàng Đế[2]
  3. Biển thước[3]
  4. Hoa đà[4]
  5. Trương Trọng Cảnh[5]
  6. Lý Thời Trân[6]

Sách y học cổ truyền Trung quốc[edit]

Sách y học cổ truyền Trung quốc được nhiều tác giả biên tập bao gồm các sách sau: