Triết học không chuyên/5/Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng

From Wikiversity

Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng[edit]

Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua tất cả các quan điểm, quan niệm của nó song có thể khái quát thành hai quan điểm lớn: quan điểm duy vật về thế giới và quan điểm duy vật về xã hội.

Quan điểm duy vật về thế giới[edit]

Cũng như những nhà duy vật trước đó, các nhà duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất nhưng vật chất không phải là một hay một số chất cụ thể mà vật chất là thực tại khách quan, tức là tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức, không phụ thụoc vào ý thức, quyết định sinh ra ý thức và được ý thức phản ánh[1][2].

Từ quan niệm bản chất của thế giới là vật chất, các nhà duy vật biện chứng khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó[3].

Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện:

Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra và không mất đi.

Tất cả các bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ với nhau, chúng hoặc là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, hoặc có nguồn gốc từ vật chất, do vật chất sinh ra. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi, chuyển hoá lẫn nhau, là nguyên nhân, kết quả của nhau.

Mọi sự tồn tại, biến đổi, chuyển hoá của các dạng vật chất đều bị chi phối bởi các quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.

Những nội dung trên không phải là sáng tạo thuần tuý từ tư duy của các nhà duy vật biện chứng mà trước hết nó là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên:

Từ phỏng đoán thiên tài về bảo toàn vật chất và bảo toàn vận động của Lômônôxốp; từ việc chứng minh được bằng thực nghiệm sự bảo toàn khối lượng trong các phản ứng hoá học của ông và Lavoadiê đến định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Maye và hệ thống các định luật bảo toàn của vật lý học sau này là nền tảng khoa học cho kết luận về tính bất sinh, bất diệt của thế giới vật chất.

Từ phát hiện ra tế bào hữu cơ với tư cách là đơn vị sống của Svannơ và Slaiđen mà cấu tạo và mọi quá trình phát sinh, phát triển của các cơ thể đã hiện ra theo quy luật.

Từ phát hiện của Đácuyn về chuỗi tiến hoá của giới hữu sinh cùng một loạt các phát hiện khác trong vật lý học, hoá học, sinh học, thiên văn học đã dẫn đến phát hiện về các hình thức vận động của Ph.Ăngghen với tư cách là luận cứ khoa học về các mối liên hệ phổ biến của vật chất đang biến đổi, đang chuyển hoá, đang là nguyên nhân, kết quả của nhau.

Như vậy, đúng như các nhà duy vật biện chứng đã tổng kết, bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài, khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên[4].

Quan điểm về xã hội[edit]

Xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, là tổng

hợp những con người hiện thực cùng tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ[5].

Đối với quá trình hình thành quan điểm duy vật về xã hội và cơ sở để xác định quan điểm duy vật về xã hội. V.I.Lênin viết: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”[6]; Mác và Ăngghen nhận thấy rằng, cũng như mọi hiện tượng trong giới tự nhiên đều có nguyên nhân vật chất, sự phát triển của xã hội loài người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định[7].

Nội dung cơ bản quan điểm duy vật về xã hội thể hiện ở chỗ:

Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên[edit]

Quán triệt quan điểm duy vật vào lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: xã hội là một bộ phận đặc thù cho tự nhiên. Chính sự phát triển lâu dài của tự nhiên đã dẫn đến ra đời con người và xã hội loài người. Xã hội là sản phẩm phát triển cao nhất và là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở chỗ, nó có những quy luật vận động, phát triển riêng và sự vận động, phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động có ý thức của con người đeo đuổi những mục đích nhất định.

Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị, tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội[edit]

Phê phán quan điểm duy tâm, tôn giáo cho ý thức, tinh thần quyết định đời sống xã hội, quan điểm duy vật về xã hội cho rằng: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là điểm khác nhau căn bản giữa con người với động vật. Lịch sử phát triển của xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử lại được tiến hành theo những phương thức sản xuất nhất định. Từ đó quan điểm duy vật về xã hội đi đến khẳng định: phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội, quyết định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung; “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lạ tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[8].

Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên[edit]

Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, một xã hội trọn vẹn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là một hình thái kinh tế - xã hội; mỗi hình thái kinh tế - xã hội gồm những mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (mà những quan hệ sản xuất này tạo nên kết cấu kinh tế hay cơ sở hạ tầng của xã hội) và kiến trúc thượng tầng.

Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường xuyên phát triển. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất. Lúc này, kết cấu kinh tế – tức cơ sở hạ tầng củ xã hội – thay đổi. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi. Hình thái kinh tế - xã hội này đã chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.[9]

Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử

Sự vận động, phát triển của xã hội diễn ra theo các quy luật khách quan, nhưng phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Trong hoạt động của con người không thể tách rời mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ, trong đó quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định, là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Vai trò quyết định của quần chúng nhân dân thể hiện ở chỗ: quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất; là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử; là người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần.

Như vậy, quan điểm duy vật về xã hội là một hệ thống quan điểm thống nhất chặt chẽ với nhau, về sự ra đời, tồn tại, vận động phát triển của xã hội và các lực lượng thực hiện những nhiệm vụ lịch sử đặt ra.

Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng[edit]

Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở tính thực tiễn – cách mạng của nó.

Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn[edit]

Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Ở đây, mối quan hệ này được hiểu là mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Về vấn đề này, trong khi chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, coi ý thức là nguồn gốc của vật chất, sản sinh ra vật chất thì với việc khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại chủ nghĩa duy tâm, đặt nền móng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật sau này. Song, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước Mác là duy vật không triệt để (duy vật về tự nhiên nhưng duy tâm về xã hội) và không thấy được sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên song nguyên nhân chủ yếu và cũng là “khiếm khuyết chủ yếu” là các nhà duy vật trước Mác thiếu quan điểm thực tiễn[10].

Thực tiễn, với tư cách là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo hiện thực mà những dạng cơ bản của nó là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học, được các nhà duy vật biện chứng coi là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng cho con người. Hoạt động này là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức của con người với thế giới vật chất.

Thông qua thực tiễn, ý thức con người được vật chất hoá, tư tưởng trở thành hiện thực. Thông qua thực tiễn, ý thức con người đã không chỉ phản ánh thế giới mà còn “sáng tạo ra thế giới”. C.Mác cho rằng thực tiễn là nơi con người chứng minh sức mạnh, chứng minh tính hiện thực và tính trần tục của tư duy[11].

Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức thế giới, đặc biệt việc thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, các nhà duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó để giải quyết thoả đáng vấn đề cơ bản của triết học. Ở đây, trong khi khẳng định vai trò quyết định của các yếu tố vật chất, các nhà duy vật biện chứng đã “không loại trừ việc các lĩnh vực tư tưởng, đến lượt chúng, lại có thể tác động ngược trở lại, nhưng là tác động cấp hai lên những điều kiện vật chất...”; không loại trừ việc các lĩnh vực tư tưởng “... cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.[12][13]

Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng[edit]

Trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về cơ bản bị tách khỏi nhau. Chủ nghĩa duy vật tuy có chứa đựng một số tư tưởng biện chứng nhất định, nhưng nhìn chung phương pháp siêu hình giữ vai trò thống trị, đặc biệt trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ thứ XVII – XVIII.

Trong khi đó, phép biện chứng lại đạt đến đỉnh cao ở chủ nghĩa duy tâm với quan niệm về sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học cổ điển Đức.

Việc tách rời giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã không chỉ làm các nhà duy tâm mà ngay cả các nhà duy vật trước Mác không hiểu về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và nối tiếp nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.

Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết trước đó, với việc tổng kết thành tựu các khoa học của xã hội đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí để hình thành nên con người duy vật biện chứng với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. Sự thống nhất này đã đem lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hoá và phát triển.

Quan niệm duy vật triệt để[edit]

Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng phải thể hiện quan niệm của mình về tự nhiên và xã hội.

Khi giải quyết những vấn đề tự nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác đứng trên quan điểm duy vật vì các nhà duy vật đều khẳng định sự tự tồn tại của thế giới vật chất và thừa nhận tính thứ nhất của vật chất. Song, vì không hiểu đúng về vật chất, không hiểu đúng nguồn gốc, bản chất của ý thức, thiếu quan điểm thực tiễn, thiếu phương pháp tư duy biện chứng và một số hạn chế khác về nhận thức, về lịch sử nên khi giải quyết những vấn đề về xã hội, các nhà duy vật trước Mác đã lấy các yếu tố tinh thần như tình cảm, ý chí, nguyện vọng, v.v. làm nền tảng. Vì vậy, chủ nghĩa duy vật trước mác là chủ nghĩa duy vật không triệt để.

Khẳng định nguồn gốc vật chất của xã hội; khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử – tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật cũ. V.I.Lênin nhận định rằng: “Trong khi nhận thức sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”[14].

Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật duy vật lịch sử là cuộc cách mạng đối với quan niệm về xã hội, nó đem lại cho con người một công cụ vĩ đại trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.

Tính thực tiễn – cách mạng[edit]

Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng trước hết thể hiện ở:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản[edit]

Giải cấp vô sản được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại[15]; nó có lợi ích, có mục đích phù hợp với lợi ích cơ bản, mục đích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã được giai cấp vô sản tiếp nhận như tiếp nhận một công cụ định hướng cho hành động, như vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại. Công cụ định hướng này, vũ khí lý luận này đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định: Giống như chủ nghĩa duy vật biện chứng thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí tinh thần của mình[16] nên ngay từ đầu, cái khuynh hướng mới, coi lịch sử phát triển của lao động là chìa khoá để hiểu toàn bộ lịch sử của xã hội, đã chủ yếu hướng về giai cấp vô sản và đã được giai cấp vô sản giành cho một sự hưởng ứng mà nó không tìm thấy và không mong chờ có được ở một nơi nào khác[17].

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới[edit]

Bất kỳ một học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi thế giới mà thông qua tri thức về thế giới, con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp, v.v. chỉ đạo hoạt động của mình tác động vào thế giới.

Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng phải giải thích thế giới song để thực hiện được vai trò cải tạo thế giới học thuyết phải phản ánh đúng thế giới, phải định hướng hoạt động cho con người phù hợp với quy luật, phải được quần chúng nhân dân tin và hành động theo. Nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng đáp ứng được những yêu cầu này.

Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện mối quan hệ mật thiết với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên mọi lĩnh vực.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới[edit]

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong quan niệm về tính hợp lý của cái hiện tồn đã bao hàm cả quan niệm về sự phủ định, về sự diệt vong tất yếu của cái hiện tồn đó[18].

Ph.Ăngghen cho rằng không có gì là tối hậu, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả. Trên mọi sự vật và trong mọi sự vật đều mang dấu ấn của sự suy tàn tất yếu bởi không có gì tồn tại ngoài quá trình không ngừng của sự hình thành và tiêu vong, của sự tiến triển vô cùng tận từ thấp đến cao[19].

Tính cách mạng sâu sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển; qua đó, quá trình xoá bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới, cái tiến bộ hơn là tất yếu.

Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện phong phú, đa dạng qua mỗi luận điểm của nó song có thể khái quát thành tư tưởng cơ bản là:

Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế giới vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là kết quả của sự tư biện mà là thành tựu hoạt động thực tiễn, thành tựu tư duy khoa học của nhân loại trong quá trình phản ánh thế giới. Trên tinh thần ấy có thể khẳng định chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học.

Song, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hệ thống mở nên chúng ta không coi nó như một cái gì đó đã xong xuôi hẳn, bất khả xâm phạm mà coi nó luôn cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng phát triển của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động, nó đặt ra những yêu cầu có tính nguyên tắc phương pháp luận mà từ những nguyên tắc ấy con người phải vận dụng sáng tạo sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Tham khảo[edit]

  1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.673-678.
  2. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva 1980, t.18, tr.322.
  3. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.67.
  4. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.67.
  5. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t.27, tr.657.
  6. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.13, tr.53.
  7. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.2, tr.6.
  8. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.13, tr.607.
  9. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.13, tr.14-16.
  10. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.373.
  11. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.371.
  12. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, t.37, tr.603.
  13. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.580.
  14. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.53
  15. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.430.
  16. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.1, tr.589.
  17. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.21, tr.450-451.
  18. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35-36.
  19. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, t.21, tr.394.