Triết học không chuyên/5/Thế giới quan và thế giới quan duy vật

From Wikiversity

Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan[edit]

Khái niệm “Thế giới quan”[edit]

Là sản phẩm và là một bộ phận của thế giới, con người có nhu cầu phải nhận thức về thế giới cũng như phải nhận thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới để điều chỉnh hoạt động của mình, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển. Kết quả của quá trình nhận thức ấy tạo nên thế giới quan.

Như vậy, thế giới quan là những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về bản thân và về cuộc sống của con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.

Về nguồn gốc, thế giới quan ra đời từ cuộc sống. Nó là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức song suy cho đến cùng nó là kết quả của cả những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Hình thành thế giới quan là một quá trình tất yếu mà chủ thể của nó có thể là cá nhân hay cộng đồng xã hội.

Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ: 1) Các đối tượng bên ngoài chủ thể; 2) Bản thân chủ thể và 3) Mối quan hệ giữa chủ thể với các đối tượng bên ngoài chủ thể. Ba góc độ này vừa thể hiện ý thức con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức của con người về chính bản thân mình.

Về hình thức, thế giới quan có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể hiểu hiện dưới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ.

Về cấu trúc, là hiện tượng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc phức tạp và được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản của thế giới quan là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ thôi thúc con người. Như vậy, một thế giới quan nhất quán là một thế giới quan có tri thức và niềm tin thống nhất với nhau tạo nên cơ sở vững chác cho con người tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con người xác định thái độ, cách thức hoạt động, cách thức sống nói riêng và xác lập nhân sinh quan nói chung.

Chính vai trò là cơ sở để con người xác định những vấn đề then chốt của cuộc sống, thế giới quan có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng bình xét, đánh giá, chức năng điều chỉnh hành vi, v.v. khái quát lại, chức năng bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người.

Những hình thức cơ bản của thế giới quan[edit]

Là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, thế giới quan phát triển theo sự phát triển nhận thức của con người. Cho đến nay, sự phát triển của thế giới quan đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.

Thế giới quan huyền thoại[edit]

Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo.

Thế giới quan huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thuỷ”, được thể hiện rõ nét qua các chuyện thần thoại, nó chủ yếu phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong xã hội công xã nguyên thuỷ.

Thế giới quan huyền hoại mang nặng dấu ấn của thời đại đã sản sinh ra nó – thời đại mà con người tính mông muội chưa bị đẩy lùi trong cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, trong cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn.

Thế giới quan huyền thoại chủ yếu là sản phẩm của nhận thức cảm tính thể hiện qua những đối tượng mà con người có thể trực tiếp quan sát được nên những gì trừu tượng thường được con người hình dung dưới những dạng sự vật cụ thể. Chẳng hạn: “Thiện” và “ác”. Đây là khái niệm thể hiện sự đánh giá về mặt giá trị của xã hội song trong thần thoại, thiện - ác được mô tả là những vật có hình dáng, có kích thước và có cả nơi cất giữ, bảo quản. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét trí tưởng tượng của “tư duy nguyên thuỷ” – tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Sự pha trộn này, như Ph.Ăngghen nhận định, là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân cách hoá, nhân hình hoá, nhân tính hoá chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại.[1] Thần Sông Akêlôx, Thần Đất Gaia, v.v. trong thần thoại Hy Lạp; Thần Gió Ngẫu Cường, Thần Mặt Trời Viêm Đế v.v. trong thần thoại Trung Quốc; Thần Lửa Agri, Thần Không Trung Varuna, v.v. trong thần thoại Ấn Độ; v.v. là kết quả của sự nhân cách hoá, nhân hình hoá, nhân tính hoá ấy.

Mặt khác, trong xã hội công xã nguyên thuỷ, cuộc sống cộng đồng với tất cả những nhu cầu của nó đã làm nảy sinh ý thức tìm về cội nguồn của người nguyên thuỷ. Họ biết hơn những gì mà tổ tiên của họ đã tạo ra và mong mỏi tổ tiên sẽ tiếp thêm sức mạnh, giúp họ chiến thắng trong cuộc chiến chống thiên tai, chống thú dữ và chống những cộng đồng người khác, Hình ảnh của các thế hệ trước được truyền miệng từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác qua trí tưởng tượng, qua suy luận tưởng tượng của người kể tạo ra những sự biến đổi không tự giác làm những con người của thị tộc ngày càng anh hùng hơn, kỳ vĩ hơn và cũng thần thánh hơn. Hêraclex, Hector, Ôđixê, Thiếu Hạo, Chuyên Húc, v.v. là những con người như thế.

Có thể nói, ở thế giới quan huyền thoại, “Bất cứ một câu chuyện thần thoại nào cũng đều khắc phục, khống chế và hình thành các lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng”[2]; cũng đều truy tìm nguồn gốc thị tộc – những thị tộc đã có trước thần thoại do chính bản thân thị tộc sáng tạo ra với những vị thần và bán thần; cũng đều chỉ là cái thực tế đã qua phản ánh hoang tưởng vào những câu chuyện của người nguyên thuỷ”[3].

Thế giới quan tôn giáo[edit]

Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người; được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy.

Thế giới quan tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp, Những hình thức sơ khai của thế giới quan này như Bái vật giáo, Tôtem giáo, Ma thuật giáo, Linh vật giáo, Saman giáo thể hiện sự yếu đuối, bất lực, sợ hãi của con người trước những lực lượng tự nhiên, cũng như những lực lượng xã hội đã dẫn đến việc con người thần thánh hoá chúng, quy chúng về những sức mạnh tự nhiên và đi đến tôn thờ chúng. Theo Ph.Ăngghen “Tất cả các tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người – những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”[4].

Đặc trưng chỉ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. V.I.Lênin cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu, v.v.”[5]. Ở niềm tin này, thế giới quan tôn giáo vừa biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn ấy. Nó như tiếng thở dài của chúng sinh, như “thuốc phiện” làm giảm nỗi đau trước những mất mát của những người cùng khổ, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng trong cuộc sống.

Thế giới quan triết học[edit]

Thế giới quan triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới xung quanh, về bản thân và về cuộc sống của con người, về vị trí của con người trong thế giới ấy.

Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi triết học ra đời – khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.

Thế giới quan triết học và triết học không đồng nhất. Triết học là hạt nhân của thế giới quan, là một bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan như những quan điểm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hoá, v.v.

Đặc trưng quan trọng nhất của thế giới quan triết học là việc đề cao vai trò của lý trí; nó phản ánh thế giới bằng lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù không ngừng điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chúng trong quá trình nhận thức.

Phân biệt sự khác nhau giữa những người có thế giới quan triết học với những người có thế giới quan khác, C.Mác viết: “... các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo; các vị hứa hẹn toàn bộ thiên đường và thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị doạ nạt, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ – của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục[6].

Ba hình thức cơ bản của thế giới quan có thể chia thành hai loại: Thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học, trong đó, thế giới quan khoa học là thế giới phản ánh thế giới và định hướng cho hoạt động của con người trên cơ sở tổng kết những thành tựu của quá trình nghiên cứu khoa học, thực nghiệm khoa học và dự báo khoa học. Ở thế giới quan khoa học, các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới không ngừng được bổ sung, hoàn thiện theo sự phát triển của khoa học và cùng với sự bổ sung, hoàn thiện ấy, vai trò cải tạo thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của thế giới quan khoa học ngày càng được nâng cao.

Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển thế giới quan duy vật[edit]

Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật[edit]

Thế giới quan duy tâm là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người, xã hội loài người nói riêng.

Thế giới quan duy tâm  thể hiện rất đa dạng dưới nhiều cấp độ khác nhau.

Tính đa dạng của thế giới quan duy tâm trước hết phụ thuộc vào tính đa dạng trong quan niệm về “tinh thần” của những người có thế giới quan này. “Tinh thần” có thể là ý thức của con người như ý chí, tình cảm, tri thức, kinh nghiệm, v.v.; cũng có thể là một bản nguyên, bên ngoài con người như “Tinh thần tối cao”, “Ý niệm tuyệt đối”, “Đấng Sáng tạo”, v.v.

Các cấp độ của thế giới quan duy tâm phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người và tương ứng với trình độ nhận thức ấy, thế giới quan duy tâm thể hiện dưới hình thức thô sơ, tôn giáo hay triết học. Về vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Tất cả các nhà duy tâm , cả về triết học lẫn tôn giáo, cả cũ lẫn mới, đều tin vào linh cảm, khải thị, chúa cứu thế, người sáng tạo kỳ diệu; sự tín ngưỡng ấy mang hình thức thô sơ, tôn giáo hay hình thức văn minh, triết học, thì điều đó chỉ phụ thuộc vào trình độ giáo dục của họ...”[7]

Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực.

Theo thế giới quan duy vật thì chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, Thế giới vật chất không sinh ra, không bị mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.

Thế giới quan duy vật cũng thừa nhận sự tồn tại của các hiện tượng tinh thần song mọi biểu hiện của tinh thần đều có nguồn gốc từ vật chất, Vì vậy, trong mối qua hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, tinh thần có sau và bị vật chất quyết định.

Thế giới quan duy vật khẳng định sự tồn tại hiện thực của con người và cùng với việc thừa nhận vai trò quyết định cuả hoàn cảnh vật chất, thế giới duy vật nhấn mạnh tính năng động, tính tích cực của con người trong cuộc sống.

Phân biệt giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, V.I.Lênin cho rằng: “Không trừ một trường hợp nào, đằng sau một đống thuật ngữ tinh vi, đằng sau cái mớ lộn xộn những nghị luận uyên thâm kinh viện, là hai đường lối cơ bản, hai khuynh hướng cơ bản. Những người duy vật cho rằng giới tự nhiên là cái có trước, tinh thần là cái có sau; nó đặt tồn tại lên hàng đầu và tư duy vào hàng thứ hai. Còn những người duy tâm thì ngược lại”[8].

Như vậy, theo V.I.Lênin, cơ sở quan trọng nhất để xác định một thế giới quan nào đó thuộc duy vật hay duy tâm – cho dù duy tâm dưới bất kỳ hình thức nào (thô sơ, chất phác, tôn giáo hay văn minh, triết học) – là xem thế giới quan đó quan niệm như thế nào về vị trí, vai trò của vật chất, của ý thức trong mối quan hệ giữa chúng.

Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật[edit]

Kể từ khi triết học ra đời, sự phát triển của thế giới quan duy vật gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật là Chủ nghĩa duy vật chất phác, Chủ nghĩa duy vật siêu hình, Chủ nghĩa duy vật biện chứng là ba hình thức cơ bản của thế giới quan: Thế giới quan duy vật chất phác, Thế giới quan duy vật siêu hình và Thế giới quan duy vật biện chứng.

Thế giới quan duy vật chất phác[edit]

Thế giới quan duy vật chất phác là thế giới quan thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy vật

Thế giới quan duy vật chất phác thể hện rõ nét ở thời cổ đại. Đây là thời kỳ con người đã thoát khỏi trạng thái mông muội nhưng mọi mặt của đời sống xã hội còn ở trình độ rất thấp. Lao động đã từng bước được phân thành lao động trí óc và lao động chân tay song sản xuất vật chất vẫn là hoạt động cơ bắp còn hoạt động tinh thần của những người lao động trí óc mới chỉ tạo nên phôi thai của khoa học nên trong khi thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, các nhà duy vật đã quan niệm vật chất là một hay một số chất đầu tiên sản sinh ra vũ trụ.

Phương Đông, phái Ngũ hành coi những chất đầu tiên ấy là Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả - Thổ; phái Nyaya – Vai‟sêsika: những hạt không đồng nhất, bất biến, khác nhau về hình dáng và khối lượng mà họ gọi là Anu; phái Lokayata: đất, nước, lửa, không khí; v.v.

phương Tây, phái Milê cho rằng chất đầu tiên ấy đơn thuần là nước (quan điểm của Talét), apeirôn (quan điểm của Anaximan) hay không khí (quan điểm của Anaximen); Hêraclit bảo đấy là lửa; Lơxip và Đêmôcrit khẳng định là nguyên tử; v.v.

Những vấn đề về con người cũng được các nhà duy vật giải thích xuất phát từ những chất mà họ coi là vật chất ấy: Con người là hiện thân của ngũ hành, là sản phẩm của khí, là sự tương tác giữa âm – dương, là sự kết hợp các nguyên tử, v.v.

Với quan niệm về thế giới, về con người như vậy, nhìn chung thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại có những bước tiến đáng kể so với các thế giới quan khác cùng tồn tại ở xã hội đương thời song do hạn chế về lịch sử, thế giới quan duy vật chất phác còn nhiều hạn chế, trong đó:

Nhận thức của các nhà duy vật mang nặng tính trực quan, phỏng đoán chứ chưa có được những căn cứ khoa học vững chắc.

Quan niệm vật chất là một hay một số chất đầu tiên sản sinh ra vạn vật chứng tỏ các nhà duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với vật thể – một số dạng cụ thể của vật chất.

Việc đồng nhất vật chất với vật thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều hạn chế trong những lĩnh vực khác, như: Không hiểu được bản chất của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa tinh thần với vật chất; không có cơ sở xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết những vấn đề về xã hội. Điều đó tất yếu dẫn đến duy vật không triệt để: khi giải quyết những vấn đề về tự nhiên họ đứng trên quan điểm duy vật, còn khi giải quyết những vấn đề về xã hội họ đã “trượt” sang quan điểm duy tâm”; v.v.

Thế giới quan duy vật thời cổ đại chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chứ chưa đóng được vai trò cải tạo thế giới. Tuy còn nhiều hạn chế cả về trình độ nhận thức cũng như nội dung phản ánh nhưng thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại đã có những đóng góp lớn lao vào quá trình phát triển nhận thức. Điều ấy thể hiện: Sự ra đời của thế giới quan duy vật thời cổ đại đã đánh dấu bước chuyển hoá từ giải thích thế giới dựa trên thần linh sang giải thích thế giới dựa vào giới tự nhiên, nó định hướng cho con người nhận thức thế giới phải xuất phát từ chính bản thân thế giới và nó đã đặt ra nhiều vấn đề - từ đó thế giới quan duy vật ở các giai đoạn sau tiếp tục phát triển, hoàn thiện.

Thế giới quan duy vật siêu hình[edit]

Thế giới quan duy vật siêu hình là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng phương pháp tư duy siêu hình.

Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét vào thời cận đại, vào thế kỷ thứ XVII – XVIII ở các nước Tây Âu. Thời kỳ này phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được xác lập ở nhiều nước. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi khoa học tự nhiên phải có những bước phát triển mới nhưng vào thế kỷ thứ XVII – XVIII hoá học còn ở trong hình thức ấu trĩ, chủ yếu theo thuyết phlôgixtôn; sinh vật học ở trình độ phôi thai, cơ thể của động, thực vật mới chỉ được nghiên cứu rất thô sơ và được giải thích bằng những nghiên cứu thuần tuý máy móc; lịch sử phát triển của trái đất hoàn toàn chưa được biết đến v.v. Trong tất cả các khoa học tự nhiên, chỉ có cơ học là về cơ bản đã đạt đến mức độ hoàn bị nên những định luật cơ học được coi là duy nhất đúng đối với mọi hoạt động nhận thức. Điều này dẫn đến sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình mà hầu hết các nhà duy vật ở Tây Âu đều chịu ảnh hưởng. Những yếu tố biên chứng có xuất hiện trong học thuyết của các nhà duy vật song nhìn chung thế giới quan của họ là thế giới quan duy vật siêu hình. Tiêu biểu cho thế giới quan duy vật siêu hình thế kỷ thứ XVII – XVIII là thế giới quan của Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ, Xpinôda, Đềcáctơ, La Metri, Điđrô, Hônbách, v.v.

Các nhà duy vật siêu hình trong khi phủ nhận vai trò của Đấng Sáng tạo, thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất đã phát triển tư tưởng coi vật chất là chất đầu tiên tạo ra vũ trụ của các nhà duy vật thời cổ đại: Bêcơn, Đềcáctơ coi vật chất là “hạt”; Hốpxơ, La Metri, Điđrô coi là “các vật thể riêng lẻ”, v.v. Nhìn chung, thế giới trong quan niệm của các nhà duy vật siêu hình là vô số những sự vật cụ thể tồn tại cạnh nhau trong một không gian trống rỗng, vĩ đại.

Các nhà duy vật siêu hình đề cao con người, đề cao các giá trị của con người song quan niệm con người cũng chỉ như một cỗ máy: Hốpxơ hiểu trái tim của con người như chiếc lò xo, thần kinh như những sợi chỉ còn các khớp xương như những bánh xe; Bêcơn coi ý thức của con người là “linh hồn biết cảm giác” tồn tại trong óc và luôn chảy theo các dây thần kinh và mạch máu; v.v. Không hiểu đúng về con người, tất yếu các nhà duy vật siêu hình cũng không thể hiểu đúng về vị trí, vai trò của con người trong thế giới mà con người đang sống...

Thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại tuy góp phần chống thế giới quan duy tâm, góp phần giúp con người đạt được một số hiệu quả trong nhận thức từng lĩnh vực hẹp song vì phát triển tư tưởng về vật chất của các nhà duy vật thời cổ đại và phương pháp nhận thức là phương pháp siêu hình nên ngoài những hạn chế mà các nhà duy vật thời cổ đại đã mắc phải, các nhà duy vật thời cận đại còn mang nặng tư duy máy móc, không hiểu thế giới là một quá trình với tính cách là lịch sử phát triển của vật chất trong các mối liên hệ đa dạng, phức tạp và trong trạng thái vận động không ngừng, vĩnh viễn.

Thế giới quan duy vật biện chứng[edit]

Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng phương pháp tư duy biện chứng.

Thế giới quan này được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ thứ XIX, V.I.Lênin và những người kế tục ông phát triển.

Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của L.Phơbách và phép biện chứng của F.Hêghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của khoa học, trước hết là thành tựu của Vật lý học và Sinh học. Ph.Ăngghen nhận định: Thời gian này (giữa thế kỷ thứ XIX) khoa học tự nhiên đã phát triển và đạt được những kết quả rực rỡ, đã cung cấp những tài liệu mới với số lượng chưa từng có, đến mức làm cho người ta không những có thể khắc phục hoàn toàn tính siêu hình máy móc của thế kỷ XVIII, mà ngay bản thân khoa học tự nhiên, nhờ chứng minh được những mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên mà đã biến từ khoa học kinh nghiệm chủ nghĩa thành khoa học lý luận và nhờ tổng hợp những kết quả đã đạt được mà đã trở thành một hệ thống nhận thức duy vật về thế giới trong sự vận động, biến đổi không ngừng của nó1.

Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng còn là kết quả tổng kết sự kiện lịch sử diễn ra ở các nước Tây Âu, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và đã bộc lộ cả những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế của nó.

Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng – những vấn đề mà chúng ta tìm hiểu sau đây – đem lại cho con người không chỉ một bức tranh trung thực về thế giới mà còn đem lại cho con người một định hướng, một phương pháp tư duy khoa học để con người tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới.

Tham khảo[edit]

  1. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.404-405.
  2. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.12, tr.890.
  3. Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.154-156.
  4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr.437.
  5. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1979, t.12, tr.169-170.
  6. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.159.
  7. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t3, tr.780.
  8. Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr.416 và tr.112.