Triết học không chuyên/6/Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật - tính khoa học và tính các mạng của nó

From Wikiversity

Nội dung của phép biện chứng duy vật hết sức phong phú, phù hợp với đối tượng nghiên cứu là sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy và từ trong những lĩnh vực ấy rút ra được những quy luật của mình. Phép biện chứng duy vật đã khái quát từ hiện thực khách quan tạo ra các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật phản ánh quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế giới và để nghiên cứu chúng, nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là các nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất về sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể hoá các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, tức nghiên cứu các phạm trù, quy luật cơ bản đó, là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh “Vậy là từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của hai giai đoạn phát triển lịch sử ấy cũng như là bản thân tư duy”[1].

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến[edit]

Khái niệm về mối liên hệ phổ biến[edit]

Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất. Ngay cả ý thức của con người là cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao và nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.

Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Các mối liên hệ có ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy và có cả trong các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian v.v. Sự phong phú, đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới dẫn đến sự đa dạng của các mối liên hệ giữa chúng. Có mối liên hệ, tác động giữa các sự vật, hiện tượng vật chất với nhau. Có mối liên hệ giữa sự vật vật chất với hiện tượng tinh thần. Có mối liên hệ giữa các hiện tượng tinh thần với nhau v.v. Các mối liên hệ đó, suy cho đến cùng, đều phản ánh các mối liên hệ, tác động và quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan đa dạng và giữ những vai trò, những vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hoá giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới. Các mối liên hệ trên thể hiện trong các hình thức khác nhau, trong đó sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là các mối liên hệ bên ngoài, còn sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong mỗi sự vật, hiện tượng là mối liên hệ bên trong. Vai trò của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới và cũng có mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng và cũng có mối liên hệ gián tiếp, trong đó các sự vật, hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên và cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ bản chất đóng vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật và cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu v.v. Tuỳ thuộc vào tính chất và vai trò để phân chia hình thức của từng mối liên hệ. Tuy vậy, sự phân chia đó chỉ có ý nghĩa tương đối, không thể tuyệt đối hoá một hình thức, một vai trò nào của chúng vì các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng rất phức tạp, không thể xem xét chúng trong sự tách rời với tất cả các mối liên hệ khác. Trên thực tế, tất cả các hình thức và vai trò của các mối liên hệ còn cần phải được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển của chúng.

Tóm lại, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. Mối liên hệ phổ biến là đặc trưng khái quát về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, con người rút ra được những quan điểm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình.

Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh các mối liên hệ chung nhất[edit]

Các mối liên hệ phổ biến[2] giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức. Nguồn gốc của chúng phạm trù là thực tiễn, các phạm trù được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội của con người. Trong phép biện chứng duy vật, các phạm trù đóng vai trò phương pháp luận khác nhau. Các phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hoá, trừu tượng hoá để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các phạm trù nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng là một quá trình tự nhiên. Các phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Từ điểm xuất phát là thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người, luôn vận động, phát triển, liên hệ, chuyển hoá lẫn nhau, phép biện chứng duy vật khẳng định, các phạm trù cũng phải vận động và phát triển để phản ánh đúng đắn và đầy đủ về những sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Đồng thời, để sự nhận thức về các sự vật, hiện tượng ấy ngày càng trở nên sâu sắc hơn, nên phép biện chứng duy vật ngày càng được bổ sung thêm những phạm trù mới. Như vậy, các phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là một hệ thống bất biến, mà chúng phát triển cùng với sự phát triển của khoa học. Mối liên hệ giữa các phạm trù của các ngành khoa học với các phạm trù của phép biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng. Khi nghiên cứu các phạm trù cần liên hệ chúng với nhau và với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, bởi thế giới muôn hình, muôn vẻ, cho nên, dù quan trọng đến mấy, chỉ riêng các phạm trù hoặc các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật sẽ không phản ánh đầy đủ được các mối liên hệ bản chất của thế giới, bởi "Quy luật nắm lấy cái gì là yên tĩnh- mà chính vì vậy mà mỗi quy luật, mọi quy luật đều chật hẹp, không đầy đủ, gần đúng"[3].

Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất[edit]

Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh về những sự vật, hiện tượng đơn nhất (cái riêng lẻ) của thế giới. Nhưng trong quá trình phát triển, so sánh những sự vật, hiện tượng này với những sự vật, hiện tượng khác, phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức nhất định phải phản ánh và xác định cái chung (cái phổ biến), nhất định phải chuyển từ cái đơn nhất sang cái chung và cái riêng (cái đặc thù), nghĩa là nhận thức về cái riêng, cái chung, cái đơn nhất là những nấc thang đầu tiên của sự nhận thức hiện thực khách quan. Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một sự vật, một hiện tượng nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, nhiều hiện tượng khác nữa. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ vốn có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.

Mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái chung trước hết biểu hiện ở mối liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất bao gồm những mặt, những yếu tố riêng lẻ vốn có trong một sự vật, hiện tượng này và những mặt, những yếu tố được lặp lại trong các sự vật, hiện tượng khác. Còn mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng được biểu hiện là mối liên hệ lẫn nhau giữa cái toàn bộ với cái bộ phận, trong mối liên hệ này, cái riêng là cái toàn bộ, cái chung là cái bộ phận. Bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ cái riêng nào cũng có cái đơn nhất, bên cạnh những mặt được lặp lại còn có những mặt không lặp lại, những mặt cá biệt. Vì vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng riêng lẻ nào cũng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng đó vừa là cái đơn nhất, vừa là cái chung. Thông qua những đặc điểm cá biệt, những mặt không lặp lại của mình, sự vật, hiện tượng đó biểu hiện là cái đơn nhất, nhưng thông qua những mặt lặp lại trong những sự vật, hiện tượng khác, nó biểu hiện là cái chung.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù cái đơn nhất, cái chung, cái riêng. Nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng, như một mặt của cái riêng, nằm trong mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và mối liên hệ đó đem lại cho nó một hình thức riêng biệt, thì các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật chung nào đó đều không thể như nhau đối với tất cả sự vật, hiện tượng có liên hệ với cái chung đó. Vì bản thân cái chung trong tất cả các sự vật, hiện tượng không phải là một và không giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện cái chung đã được cá biệt hoá, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải được thay đổi hình thức, phải cá biệt hoá cho phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp. Nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung lẫn cái riêng, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đó trong những điều kiện khác, không nên sử dụng hình thức mà nó hiện có, mà chỉ nên rút ra những mặt chung đối với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích hợp với những điều kiện nhất định đó. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước là khác nhau, nếu bắt chước một cách mù quáng tất cả những cái đã có ở những nước đi trước, thì dễ dẫn đến chủ nghĩa giáo điều; nhưng nếu chỉ coi kinh nghiệm của các nước đi trước là cái đặc thù của nước đó thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa xã hội dân tộc. Cả hai khuynh hướng trên đều gây tổn thất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nguyên nhân và kết quả[edit]

Khi nghiên cứu quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng đến những sự thay đổi về chất và ngược lại của phép biện chứng duy vật, chúng ta nhận thấy rằng, những biến đổi về lượng quyết định và sinh ra những biến đổi về chất, rằng những khác nhau về chất là kết quả của những khác nhau về lượng của sự vật, hiện tượng. Những cái làm cho cái này sinh ra cái kia, quyết định sự xuất hiện của cái kia là nguyên nhân, còn cái được xuất hiện, được quyết định là kết quả. Như vậy, sự nhận thức về mối liên hệ giữa lượng với chất dẫn đến việc phát hiện ra những yếu tố mới của mối liên hệ phổ biến là tính nhân quả và sự ra đời của phạm trù nguyên nhân và kết quả là điều tất yếu, khách quan. Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả là những biến đổi xuất hiện do do sự tương tác qua lại nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức về nguyên nhân, kết quả như trên là mức độ nhận thức sâu, khắc phục được hạn chế của quan niệm coi nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng, trong những điều kiện nhất định, nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng đó; khắc phục được thiếu sót của quan niệm coi nguyên nhân cuối cùng của sự vận động, chuyển hoá của toàn bộ thế giới vật chất nằm ngoài thế giới vật chất, trong lực lượng phi vật chất nào đó.

Phép biện chứng duy vật cho rằng, mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu. Phê phán những quan niệm sai trái của chủ nghĩa duy tâm về các tính chất của mối liên hệ nhân quả, Ph.Ăngghen nhấn mạnh “Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”[4]. Trên thực tế, không chỉ quan sát thấy hiện tượng nọ sau hiện tượng kia, mà con người còn có thể gây ra một quá trình nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện bằng thí nghiệm khoa học, trong đó quá trình ấy xẩy ra giới tự nhiên. Từ quan niệm cho rằng, tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều được gây nên bởi những nguyên nhân nhất định, trong đó có cả những nguyên nhân chưa được nhận thức, phép biện chứng duy vật rút ra nguyên tắc quyết định luận, là nguyên tắc hết sức quan trọng của nhận thức khoa học. Từ quan niệm kết quả do nguyên nhân sinh ra phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, phép biện chứng duy vật cho rằng, một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định, bởi vậy, nếu các nguyên nhân càng ít khác nhau bao nhiêu, thì các kết quả do chúng gây ra càng ít khác nhau bấy nhiêu. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân quả không cứng nhắc, tĩnh tại. Trong quá trình vận động và phát triển, nguyên nhân và kết quả thay đổi vị trí lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Cái mà trong thời gian này hoặc trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong thời gian khác hoặc trong mối quan hệ khác lại là kết quả; nguyên nhân “tắt đi” trong kết quả và kết quả “tắt đi” trong nguyên nhân; nguyên nhân “tắt đi” sinh ra kết quả, kết quả “tắt đi” sinh ra nguyên nhân (Ph.Hêghen). Nhưng nếu bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa là mỗi sự vật, hiện tượng chỉ do một nguyên nhân sinh ra. Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra do vậy, sự phân loại nguyên nhân thành nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thứ yếu; nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài v.v. đối với một kết quả vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù nguyên nhân và kết quả. Nếu bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó và do nguyên nhân quyết định thì để nhận thức được một sự vật, hiện tượng nào đó cần phải tìm nguyên nhân xuất hiện của nó. Để loại bỏ một sự vật, hiện tượng nếu sự tồn tại của nó không cần thiết, thì phải trừ bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Nếu xét về mặt thời gian, nguyên nhân luôn có trước kết quả, thì khi tìm nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng nào đó cần phải tìm nguyên nhân đó giữa những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xẩy ra trước khi sự vật, hiện tượng xuất hiện. Nếu trong thời gian hoặc trong mối quan hệ nào đó, nguyên nhân và kết quả thay đổi vị trí lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau thì để nhận thức được tác dụng của một sự vật, hiện tượng nào đó và để xác định phương hướng đúng cho hoạt động thực tiễn, cần phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trò kết quả, cũng như trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trò nguyên nhân, sản sinh ra những kết quả nhất định. Nếu một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và quyết định thì khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó không nên vội vàng kết luận về nguyên nhân nào đã sinh ra nó và khi muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có ích cho trong thực tiễn cần phải lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà không hoàn toàn dập khuôn theo những phương pháp cũ. Nếu trong số những nguyên nhân sản sinh ra một sự vật, hiện tượng nào đó có nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu; nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài thì trong nhận thức và hành động phải dựa vào nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.

Tất nhiên và ngẫu nhiên[edit]

Các mối liên hệ diễn ra trong các sự vật, hiện tượng đều được nhận thức phản ánh, nhưng chúng xuất hiện không giống nhau. Có những mối liên hệ do bản chất của sự vật, hiện tượng quy định, từ đó sinh ra phạm trù tất nhiên. Có những mối liên hệ không do bản chất của sự vật, hiện tượng, mà do sự gặp nhau của những điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài quyết định, vì vậy chúng có thể xuất hiện mà cũng có thể không xuất hiện, từ đó sinh ra phạm trù ngẫu nhiên. Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau vốn có của sự vật, hiện tượng nên phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất định phải xẩy ra đúng như thế (tất nhiên) và nhóm các mối liên hệ có thể xẩy ra và cũng có thể không xẩy ra thế này hay thế khác (ngẫu nhiên). Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xẩy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác. Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan trong sự thống nhất hữu cơ, thể hiện ở chỗ, tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên, còn tất nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Nếu tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, thì ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hoặc chậm. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân quả không cứng nhắc, tĩnh tại. Tuy mỗi một sự vật, hiện tượng đều có tất nhiên và ngẫu nhiên, nhưng trong quá trình vận động và phát triển, thông qua mối liên hệ này thì đó là ngẫu nhiên, còn thông qua những mối liên hệ khác thì đó là tất nhiên và trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hoá lẫn nhau. Ph.Ăngghen viết “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu”[5], do vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối, cần tránh quan niệm cứng nhắc khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng. Tất nhiên có mối liên hệ với cái chung, nhưng cái chung không phải lúc nào cũng là tất nhiên, bởi cái chung có thể thể hiện vừa trong hình thức của tất nhiên vừa trong hình thức của ngẫu nhiên.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Nếu tất nhiên nhất định phải xẩy ra đúng như thế, thì trong hoạt động thực tiễn cần phải dựa vào tất nhiên chứ không dựa vào ngẫu nhiên và như vậy, nhiệm vụ cơ bản của khoa học là nhận thức cho được những mối liên hệ tất nhiên của hiện thực khách quan. Nếu tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý, thì trong hoạt động nhận thức chỉ có thể chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua. Ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm chí đôi khi có thể làm cho tiến trình phát triển của sự vật, hiện tượng đột ngột biến đổi, do vậy, không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà luôn có những phương án dự phòng trường hợp các sự cố ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ. Nếu ranh giới giữa tất nhiên với ngẫu nhiên chỉ là tương đối, thì sau khi đã nhận thức được những điều kiện có thể tạo ra sự chuyển hoá trên, có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi để biến ngẫu nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên.

Nội dung và hình thức[edit]

Việc nhận thức nội dung và hình thức của các sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu và sự hình thành những khái niệm về chúng được thực hiện trong quá trình nhận thức từ những mối liên hệ nhân quả này sang mối liên hệ nhân quả khác, từ những đặc tính này sang những đặc tính khác của sự vật, hiện tượng ấy. Do vậy, những mối liên hệ diễn ra trong sự vật, hiện tượng đều được phản ánh tương đối đầy đủ trong phạm trù nội dung và hình thức. Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái biểu hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.

Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó nội dung giữ vai trò quyết định và trong những điều kiện nhất định, cái này chuyển hoá thành cái kia. Hình thức xuất hiện trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối độc lập và ảnh hưởng tới nội dung và đem lại các hệ quả nhất định. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không phù hợp, hình thức cản trở sự phát triển ấy của nội dung. Bởi vậy, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, cùng một nội dung, trong quá trình phát triển, có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau. Do vậy, phải tận dụng mọi hình thức để phục vụ cho nội dung mới. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức (chứng minh bằng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò nội dung, quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức), trong ví dụ này, quá trình phủ định hình thức cũ và tạo nên hình thức mới là bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển của phương thức sản xuất.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù nội dung và hình thức. Nếu hình thức do nội dung quyết định, là kết quả những thay đổi của nội dung và để đáp ứng với những thay đổi đó, thì sự thay đổi hình thức của sự vật, hiện tượng phải dựa vào những thay đổi thích hợp của nội dung quyết định nó. Muốn biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, làm thay đổi nội dung của nó. Nếu hình thức chỉ thúc đẩy nội dung phát triển khi nó phù hợp với nội dung, thì để thúc đẩy một sự vật, hiện tượng nào đó phát triển nhanh chóng, cần phải chú ý theo dõi mối quan hệ giữa nội dung đang phát triển với hình thức ít thay đổi, và khi giữa nội dung với hình thức xuất hiện sự không phù hợp thì, trong những điều kiện nhất định, phải can thiệp vào tiến trình khách quan, đem lại những thay đổi cần thiết về hình thức để hình thức dần phù hợp với nội dung đã phát triển và bảo đảm cho nội dung phát triển hơn nữa, không bị hình thức cũ kìm hãm. Nếu một nội dung có thể có nhiều hình thức thể hiện và ngược lại, thì cần phải sử dụng mọi loại hình thức có thể có, mới cũng như cũ, kể cả việc phải cải biến những hình thức vốn có, lấy cái này bổ sung, thay thế cho cái kia để làm cho bất kỳ hình thức nào cũng trở thành công cụ phục vụ nội dung mới. V.I.Lênin kịch liệt phê phán thái độ chỉ thừa nhận những hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn làm theo cái cũ, đồng thời Người cũng phê phán thái độ phủ nhận vai trò của hình thức cũ trong hoàn cảnh mới, chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức cũ một cách tuỳ tiện, không căn cứ[6].

Bản chất và hiện tượng[edit]

Khi có được nhận thức tương đối về những mặt, những mối liên hệ tất yếu và những đặc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, thì nhận thức đó vẫn chưa thể vươn tới sự phản ánh đầy đủ về bản chất sự vật, hiện tượng đó. Bởi trong quá trình nhận thức trên, con người mới chỉ liên kết cơ học những mặt, những mối liên hệ và những đặc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thành một khối thống nhất. Vì vậy, cùng với sự tích luỹ nhận thức, xuất hiện nhu cầu nhận thức về mối liên hệ phụ thuộc, qua lại lẫn nhau giữa những mặt, những mối liên hệ đó và đặt chúng trong sự thống nhất biện chứng, coi chúng là những yếu tố của một khối thống nhất hữu cơ. Giải quyết thành công nhiệm vụ này dẫn nhận thức vươn tới sự phản ánh đầy đủ về bản chất của sự vật, hiện tượng đang thể hiện thông qua hiện tượng tương ứng. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong quy định sự vận động, phát triển và thể hiện mình qua các hiện tượng tương ứng của sự vật, hiện tượng. Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức biểu hiện bản chất của sự vật, hiện tượng.

Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ, cái này không thể tồn tại nếu không có cái kia. Về căn bản, bản chất và hiện tượng là phù hợp với nhau, bởi mỗi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng và sự thống nhất đó được thể hiện ở chỗ, bản chất tồn tại trong sự thể hiện mình thông qua hiện tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất, bản chất “được ánh lên” thông qua hiện tượng (Ph.Hêghen). Tuy vậy, “nếu như hình thái biểu hiện và bản chất sự vật phù hợp trực tiếp với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”[7]. Trong những điều kiện nhất định, bản chất thể hiện dưới hình thức đã bị cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất bằng cách bổ sung vào bản chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể và những mối liên hệ ngẫu nhiên quy định, làm hiện tượng phong phú hơn bản chất. Nhưng bản chất vẫn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi hơn, bởi từ lúc ra đời đến khi mất đi, bản chất ít thay đổi, còn hiện tượng “động” hơn, thường xuyên biến đổi. V.I.Lênin viết “...không những chỉ có những hiện tượng là nhất thời, là động, là biến đổi mà cả bản chất của sự vật, hiện tượng cũng thế”[8]. Bản chất gắn bó chặt chẽ với cái chung, phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt, đặc thù. Bản chất cũng là cái có tính quy luật, bởi nói đến bản chất là nói đến tổng số những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù bản chất và hiện tượng. Nếu bản chất chỉ biểu hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng thể hiện bản chất thường trong hình thức đã bị cải biến, thì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không nên dừng lại ở cái biểu hiện bên ngoài (hiện tượng), mà cần phải đi sâu vào bên trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thực sự, thường ẩn giấu đằng sau hiện tượng, dựa vào những quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nếu bản chất là sự thống nhất giữa các mặt và các mối liên hệ tất nhiên vốn có của sự vật, hiện tượng, trong bản chất có những mâu thuẫn và chúng được giải quyết trong quá trình phát triển dẫn đến sự biến đổi của bản chất, tạo ra sự chuyển hoá của sự vật, hiện tượng từ dạng này sang dạng khác, thì những phương pháp áp dụng vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng phải thay đổi bằng những phương pháp mới phù hợp với bản chất đã thay đổi của sự vật, hiện tượng.

Khả năng và hiện thực[edit]

Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự vật, hiện tượng đó, do sự phát triển của những mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng đó quy định, sẽ biến đổi theo hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng đó. Khả năng là cái hiện chưa có, chưa xẩy ra, nhưng nhất định sẽ có, sẽ xẩy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự bao gồm tất cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và những hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức. Theo nghĩa này, hiện thực khách quan và hiện thực chủ quan được dùng để phân biệt các hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù khả năng và hiện thực. Nếu khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau và luôn chuyển hoá lẫn nhau. Hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hoá thành hiện thực, thì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần thấm nhuần quan điểm “chủ nghĩa Mác dựa vào hiện thực chứ không phải dựa vào “khả năng” để vạch đường lối chính trị của mình”[9]. Tuy nhiên, vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai nên khi đề ra các kế hoạch phải tính đến các khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức nói chung và của nhận thức khoa học nói riêng là phải xác định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và cần tìm ra khả năng đó trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác động qua lại giữa các mặt khác nhau ở bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng với hoàn cảnh bên ngoài. Nếu phát triển chính là quá trình mà trong đó khả năng chuyển hoá thành hiện thực, còn hiện thực này trong quá trình phát triển của mình lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại chuyển hoá thành hiện thực, tạo ra một quá trình vô tận, thì sau khi đã xác định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng, mới tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng. Trong quá trình thực hiện khả năng đã lựa chọn, cần chú ý rằng trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa đựng nhiều khả năng khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xẩy ra. Nếu cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một số khả năng và ngoài một số khả năng vốn có, thì khi có những điều kiện mới bổ sung, sự vật, hiện tượng sẽ xuất hiện thêm một số khả năng mới dẫn đến, về thực chất, đã xuất hiện một sự vật, hiện tượng mới, phức tạp hơn. Bởi vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn trong các khả năng hiện có, trước hết cần chú ý đến các khả năng gần, khả năng tất nhiên vì đó là những khả năng dễ chuyển hoá thành hiện thực hơn. Nếu một khả năng chỉ chuyển hoá thành hiện thực khi đã có đầy đủ các điều kiện cần thiết, thì cần tạo ra các điều kiện đó để khả năng chuyển hoá thành hiện thực. Cũng cần tránh sai lầm, hoặc tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.

Nguyên lý về sự phát triển[edit]

Khái niệm về sự phát triển[edit]

Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là sự vận động đi lên, thông qua bước nhảy, sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Đặc điểm của sự phát triển là tính kế thừa, tính tiến lên theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới nhưng trên cơ sở cao hơn, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng.

Phát triển là nguyên tắc chung chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Khi phân tích sự vật, hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động, phải phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát triển của chúng. V.I.Lênin cho rằng, "Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự "tự vận động ... trong sự biến đổi của nó"[10].

Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật phản ánh sự phát triển[edit]

Tự nhiên, xã hội và tư duy đều có các quy luật vận động, phát triển của riêng mình, nhưng tính thống nhất vật chất của thế giới quy định sự tồn tại các quy luật chung nhất của chúng. Các quy luật đó của tự nhiên tồn tại không phụ thuộc vào ý thức và con người không thể thay đổi được chúng, nhưng con người không bất lực trước chúng, ngược lại, khi đã nhận thức được những quy luật và những điều kiện, trong đó chúng thể hiện, con người vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của mình. Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật phản ánh hình thức chung của sự phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này còn là cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân bên trong của sự phát triển, quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó. Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật định hướng cho việc nghiên cứu những quy luật đặc thù của các ngành khoa học cụ thể và đến lượt mình, những quy luật chung nhất về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù. Mối quan hệ qua lại giữa các quy luật chung nhất với các quy luật đặc thù tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các ngành khoa học cụ thể.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra rằng, để nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển không ngừng của chúng, cần phải chỉ ra nguyên nhân, động lực của sự vận động, phát triển đó. Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và của nhận thức được thực hiện bằng con đường đấu tranh, phủ định, chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt có xu hướng phát triển đối lập nhau để một mặt, giải quyết những mâu thuẫn giữa chúng, mặt khác tạo ra động lực bên trong cho sự thay đổi, sự phát triển, sự chuyển hoá vào chất mới của chúng. Như vậy, con đường đi đến nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng là con đường phát hiện ra sự thống nhất, sự mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng.

Khi nghiên cứu những mối liên hệ lẫn nhau giữa các mặt tạo nên sự vật, hiện tượng, chúng ta nhận thấy nhiều mặt bên trong có khuynh hướng biến đổi và phát triển khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trực tiếp. Các mặt như vậy được gọi là các mặt đối lập. Sự tồn tại của mặt đối lập này phải lấy sự tồn tại của mặt đối lập kia làm tiền đề gọi là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Những mối liên hệ, tác động qua lại với nhau giữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn giữa chúng. Những mối liên hệ, tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gọi là đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Là nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, mâu thuẫn luôn vận động và phát triển. Từ những sự khác nhau không bản chất, giản đơn chuyển sang giai đoạn những sự khác nhau về bản chất, phức tạp và phát triển thành các mặt đối lập. Từ giai đoạn mặt đối lập, cùng với sự phát triển hơn nữa của mâu thuẫn, các mặt đối lập chuyển sang giai đoạn xung đột cực độ, nghĩa là khi chúng bài trừ, phủ định, chuyển hoá lẫn nhau trở thành đồng nhất thì mâu thuẫn giữa các mặt đối lập được giải quyết. Cùng với việc giải quyết mâu thuẫn, sự vật, hiện tượng chuyển sang trạng thái mới về chất, với những mâu thuẫn mới và những mâu thuẫn mới lại được giải quyết theo trình tự khác nhau - xung đột - mâu thuẫn - đồng nhất . Như vậy, mâu thuẫn không đứng im mà luôn ở trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá từ hình thức thấp lên hình thức cao và ngược lại, chuyển từ hình thức cao xuống hình thức thấp. Trong quá trình đó, các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau, trở thành đồng nhất, còn sự vật, hiện tượng chuyển sang trạng thái mới về chất.

Trong bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại các mặt đối lập và mâu thuẫn giữa chúng, nhưng điều đó không có nghĩa là trong mỗi sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại một mâu thuẫn. Mỗi sự vật, hiện tượng đều do nhiều mặt, nhiều mối liên hệ khác nhau tạo nên. Điều đó có nghĩa là trong bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn khác nhau, có vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Tính đa dạng của các mâu thuẫn được quy định khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập được triển khai, bởi trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Căn cứ vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng người ta chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng v.v[11]. Tóm lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn và khẳng định đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Theo đó, mọi sự vật, hiện tượng đều có những mặt đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn bên trong, việc giải quyết mâu thuẫn đó là nguyên nhân, là động lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của sự vật, hiện tượng cũ và sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập còn phản ánh quy luật chung của nhận thức và là trung tâm, là bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Nắm vững được nội dung của quy luật này tạo cơ sở cho việc nhận thức các phạm trù và quy luật khác của phép biện chứng duy vật, hình thành phương pháp tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh, thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển. Vì vậy, V.I. Lênin viết "có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm"[12].

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con đường đi sâu nghiên cứu, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần phải tìm ra thể thống nhất của mặt đối lập và những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó trong sự vật, hiện tượng. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đòi hỏi khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vị trí, vai trò và mối quan hệ lẫn nhau của các mặt mâu thuẫn, quá trình phát sinh, phát triển của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu đúng sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động để giải quyết mâu thuẫn. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập giúp chúng ta nhận thức được rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn và mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.

Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra rằng, những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng chỉ xẩy ra khi sự tích luỹ về những thay đổi về lượng đã đến độ, bước nhảy được thực hiện, diễn ra sự thay thế chất này bằng chất khác của sự vật, hiện tượng.

Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những mặt làm cho nó giống với sự vật, hiện tượng khác và cũng có có những mặt làm cho nó khác với sự vật, hiện tượng khác. Những cái làm cho sự vật, hiện tượng này phân biệt được với những sự vật, hiện tượng khác và chỉ rõ điểm giống nhau giữa chúng được gọi là thuộc tính. Những thuộc tính của mỗi sự vật, hiện tượng đều nêu lên đặc điểm của sự vật, hiện tượng từ hai mặt là chất và lượng. Những thuộc tính nào chỉ rõ sự vật, hiện tượng này và bản chất của nó là cái gì được gọi là chất của sự vật, hiện tượng, còn những thuộc tính nào chỉ rõ thể tích, chiều dài, chiều rộng, tốc độ phát triển, trình độ thể hiện của những thuộc tính nào đó v.v của sự vật, hiện tượng được gọi là lượng. Như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những đặc điểm về chất và lượng, là sự thống nhất giữa chất với lượng. Phạm vi, trong đó những thay đổi về lượng chưa gây ra những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng được gọi là độ. Những thay đổi về chất không phải ở bất cứ lúc nào, mà chỉ chỉ diễn ra khi nào sự thay đổi về lượng vượt quá giới hạn của độ, vượt qua một độ nhất định hay nói cách khác, sự chuyển hoá của một trạng thái về chất này sang một trạng thái về chất khác là sự chuyển hoá từ một độ này sang một độ khác. Thời gian khi sự chuyển hoá đó được thực hiện gọi là điểm nút, sự vật, hiện tượng phát triển bằng cách “tháo dần” những điểm nút này và “thắt” những điểm nút kia lại. Như vậy, sự xuất hiện của bất cứ một chất mới nào cũng đều liên quan tới sự thay đổi của lượng, đều do kết quả của sự thay đổi về lượng gây nên. Những thay đổi về lượng và chất diễn ra khách quan và quyết định sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, vẫn có sự khác nhau giữa sự thay đổi về lượng với sự thay đổi về chất. Nếu sự thay đổi về lượng thường diễn ra dần dần, liên tục thì những thay đổi về chất thường diễn ra đột ngột, dứt đoạn. Do đó những thay đổi về lượng có tính tiệm tiến, tiến hoá, còn những thay đổi về chất có tính cách mạng, gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự thay đổi đột ngột, tương đối nhanh hơn của chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và tính chất của bản thân sự thay đổi đó, người ta chia bức nhảy thành bước nhảy dần dần và bước nhảy đột biến, căn cứ vào sự thay đổi về chất của các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng, người ta chia bước nhảy thành bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Tính quy luật này nêu rõ một trong những mặt quan trọng nhất của quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, do đó được các nhà kinh điển của triết học Mác-Lênin đúc kết thành quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại và là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng đến một giới hạn nhất định (đến độ), qua đó sẽ thực hiện bước nhảy để chuyển hoá về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. Quy luật chuyển hoá từ sự thay những đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức được rằng, mặc dù cũng mang tính khách quan, nhưng quy luật xã hội lại diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người, do đó khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải có quyết tâm tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang bước thay đổi mang tính cách mạng. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức được rằng, sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, chúng ta phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó.

Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng theo đường “xoáy ốc”, sau khi đã trải qua một số lần phủ định biện chứng. Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ (sự vật, hiện tượng bị phủ định). Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển và tính kế thừa, đồng thời cũng là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định biện chứng chỉ ra rằng, không phải chỉ có sự vật, hiện tượng này là sự vật, hiện tượng bị phủ định, mà cả sự vật, hiện tượng xuất hiện do kết quả của phủ định biện chứng trên cũng sẽ bị phủ định và chính sự vật, hiện tượng phủ định sau này cũng lại bị sự vật, hiện tượng kế tiếp phủ định. Như vậy, sự phát triển được thực hiện thông qua phủ định biện chứng có chu kỳ của những sự vật, hiện tượng này bằng những sự vật, hiện tượng khác. Số lượng của phủ định, trong đó diễn ra sự biến đổi dường như quay trở lại sự vật, hiện tượng cũ, có thể khác nhau phụ thuộc vào tính chất đặc thù, vào cấu trúc của sự vật, hiện tượng mới xuất hiện do kết quả của phủ định biện chứng. Trong quá trình của những phủ định biện chứng đó, có những lúc các sự vật, hiện tượng mới xuất hiện dường như lặp lại những giai đoạn đã đi qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển không thể đi theo con đường thẳng, mà theo con đường “xoáy ốc”, mỗi vòng tròn kế tiếp dường như lặp lại vòng tròn trước đó, nhưng trên cơ sở cao hơn. Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra sự thống nhất giữa tính tiến lên, tiến bộ và kế thừa của sự phát triển. Trong sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới có lặp lại tương đối một số đặc tính của sự vật, hiện tượng cũ và kết quả là trong sự vật, hiện tượng mới, tồn tại một số đặc tính của sự vật, hiện tượng cũ đã được cải tạo cho phù hợp.

Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật. Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về khuynh hướng của sự phát triển. Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng tắp, ngược lại, diễn ra quanh co, phức tạp. "Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận"[13]. Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy luật phát triển, luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất. Trong tự nhiên, sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát. Trong xã hội, sự vật, hiện tượng mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người. Tuy sự vật, hiện tượng mới chiến thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong một thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn sự vật, hiện tượng mới. Vì vậy, quan điểm của chúng ta là ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho sự vật, hiện tượng mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ, làm cho chúng phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

Tính khoa học và tính cách mạng của phép biện chứng duy vật[edit]

Nhờ sự kế thừa những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học của nhân loại trước đó; nhờ sự khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào cách mạng vô sản đầu thế kỷ XIX, thông qua những nguyên lý, phạm trù và quy luật chung nhất của mình, phép biện chứng duy vật đã khái quát được các mối liên hệ và các quy luật vận động, phát triển phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy để đề ra phương pháp chung cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Phép biện chứng duy vật còn là sự thống nhất hữu cơ với lý luận nhận thức và lôgíc học (lôgíc biện chứng). V.I.Lênin khẳng định “Phép biện chứng là lý luận nhận thức (của Hêghen và) của chủ nghĩa Mác. Đó là một mặt (không phải một mặt mà là thực chất)”[14] và đây là một nét mới về chất của phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học thống nhất, nghiên cứu quá trình biện chứng khách quan của sự vật, hiện tượng và quá trình biện chứng chủ quan trong tư duy. Vì thế, phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Vừa là phương pháp để nhận thức, giải thích và cải biến thế giới, phép biện chứng duy vật vừa là phương pháp luận có tác dụng tích cực trong việc định hướng hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới. Ph.Ăngghen đánh giá “Phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự loại suy và do đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác”[15].

Bản chất khoa học của triết học Mác-Lênin nói chung và của phép biện chứng duy vật nói riêng còn thể hiện ở chỗ, phép biện chứng duy vật đã xây dựng nên thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản, chuyển chủ nghĩa duy vật vào nhận thức xã hội và lịch sử của nó. Sự thống nhất sáng tạo giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng, dẫn tới sự ra đời hệ thống chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Là thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất của giai cấp vô sản, tính khoa học của phép biện chứng duy vật còn thể hiện ở khả năng khái quát sáng tạo những hiện tượng mới nẩy sinh trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. "Ăngghen nói học thuyết của chúng tôi (Ăngghen nói về mình và về người bạn nổi tiếng của mình) không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam cho hành động. Luận điểm kinh điển ấy nhấn mạnh một cách đặc biệt rõ rệt và nổi bật một phương diện của chủ nghĩa Mác mà người ta rất thường hay quên không nhìn tới. Quên không nhìn tới phương diện ấy sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, cứng đờ ... sẽ trút bỏ phần tinh tuý của nó, sẽ phá huỷ cơ sở lý luận cơ bản của nó- tức là phá huỷ sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn ... của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử"[16] và do vậy, phép biện chứng duy vật đã đem lại cho chủ nghĩa Mác-Lênin khả năng phát triển bất tận.

Tính cách mạng của phép biện chứng duy vật thể hiện ở chỗ, khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của hiện thực đang tồn tại, thì trong quan niệm đó đã bao hàm cả quan niệm về sự diệt vong tất yếu của nó. Quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng, quá trình tích luỹ dần về lượng khi đến độ, gặp điều kiện chín muồi, tất yếu sẽ dẫn đến sự tự phủ định của sự vật, hiện tượng, làm cho nó phát triển theo đường “xoáy ốc” lên một giai đoạn tồn tại mới, tiến bộ hơn về chất. Phép biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận chỉ đạo con người xác định phương pháp cách mạng khoa học và đúng đắn. Thực tiễn cho thấy rằng, bất kỳ một hành động cách mạng nào, nếu xa rời những quan điểm, nguyên tắc của phép biện chứng duy vật đều làm cho cách mạng gặp nhiều khó khăn, nặng hơn thì làm cho cách mạng thoái trào. Phép biện chứng duy vật chống lại các quan điểm bảo thủ, trì trệ, đồng thời cũng chống lại các quan điểm chủ quan, duy ý chí trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Khẳng định sự khác biệt về chất của triết học Mác đối với những hệ thống triết học trước đó, V.I.Lênin viết "áp dụng phép biện chứng duy vật vào việc soạn thảo ra kinh tế chính trị, và từ cơ sở này- vào lịch sử, vào khoa học tự nhiên, vào triết học, vào chính trị và vào chiến lược của giai cấp công nhân- Đó là những gì mà C.Mác và Ph.Ăngghen quan tâm hơn cả, đó là những gì mới nhất, bản chất nhất mà họ mang lại, đó là bước tiến thiên tài trong lịch sử tư tưởng"[17] .

Ra đời trong phong trào đấu tranh cách mạng, phép biện chứng duy vật còn là sự thống nhất giữa thế giới quan, phương pháp luận triết học với tinh thần cách mạng triệt để. Những nguyên lý, phạm trù, quy luật mà phép biện chứng duy vật đưa ra đều được khái quát từ thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội và được chính thực tiễn ấy kiểm nghiệm. Về bản chất, phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, nó liên hệ mật thiết với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động, chống lại áp bức, bóc lột và những bất công trong xã hội. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật đều bao hàm việc lý giải cho sự diệt vong tất yếu của xã hội tư bản và luận chứng cho sự ra đời của xã hội cộng sản. Do vậy, ngay từ khi ra đời, “Phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”[18]. Với đặc điểm cơ bản đó, V.I.Lênin đã khẳng định phép biện chứng duy vật là “linh hồn” của chủ nghĩa Mác và làm cho toàn bộ học thuyết Mác không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho mọi hành động và phê phán bọn giáo điều chủ nghĩa thường quen vận dụng học thuyết Mác một cách dập khuôn, máy móc, kinh viện, không thấy được bản chất cách mạng của phép biện chứng duy vật. V.I.Lênin viết “Tất cả bọn chúng đều tự xưng là mácxít, nhưng hiểu chủ nghĩa Mác một cách sách vở hết chỗ nói. Chúng tuyệt nhiên không hề hiểu điểm căn bản trong chủ nghĩa Mác, tức là biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác”[19].

Bản chất khoa học, cách mạng và sáng tạo, với nội dung phong phú, hoàn bị và mang tính chất “mở”, phản ánh bản chất sự tồn tại của thế giới, phép biện chứng duy vật đã đem lại nhận thức khoa học và tổng thể về bức tranh thế giới. Không chỉ là một hệ thống lý luận phản ánh hiện thực khách quan, mà phép biện chứng duy vật còn là một hệ thống phương pháp luận chung nhất của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới và như vậy, phép biện chứng duy vật đã trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.

Tham khảo[edit]

  1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2004, t.20, tr.348.
  2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo... Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1999. Chương VI.
  3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981. t.29. tr.160.
  4. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994. t.20. tr.719.
  5. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995. t.21. tr.431.
  6. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1978. t.41. tr.111-112.
  7. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1994, t.25, phần II, tr.540.
  8. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.29. tr. 268.
  9. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.49, tr.472
  10. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1977. t.42. tr.364.
  11. Hội đồng Trung ương chỉ đạo...: Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1999. tr. 326-330.
  12. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981. t.29. tr.240.
  13. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội,1963. t.22. tr. 385.
  14. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t. 29, tr.382.
  15. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2004, t.20, tr.551.
  16. V.I.Lênin: Các Mác và chủ nghĩa Mác (1914)
  17. V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.24, tr.264.
  18. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 1994. t.23. tr.36.
  19. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva. 1981. t.45. tr.430.