Triết học không chuyên/8/Lí luận hình thái kinh tế - xã hội và vai trò phương pháp của lý luận đó

From Wikiversity

Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế- xã hội[edit]

Xã hội, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ thống hết sức phức tạp gồm nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng...Tất cả các lĩnh vực đó đều tác động đến con người và thông qua hoạt động của con người, mà hoạt động của con người thì bao giờ cũng có ý thức, ý chí chỉ đạo. Chính vì vậy, việc giải thích về đời sống xã hội là một vấn đề hết sức phức tạp. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài trước khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò chi phối trong việc nhận thức về đời sống xã hội. Người ta giải thích về đời sống xã hội xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ niềm tin tôn giáo, từ chính trị...C. Mác đã phê phán triết học Đức vào đầu thế kỷ XIX vẫn lấy "sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo

và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước..."[1]. Theo C. Mác, phương pháp tiếp cận đó của triết học Đức "đã đi đầu xuống đất" làm đảo lộn bức tranh hiện thực của lịch sử.

Từ sự phê phán đó, C. Mác đã tìm ra điểm xuất phát mới trong việc nghiên cứu xã hội là xuất phát từ con người hiện thực tức là xuất phát từ đời sống hiện thực của họ. C. Mác đã viết: "Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương, bằng thịt; không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy"[2]

Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, C. Mác đã đi đến xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử đó là: "người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất"[3]. C.Mác cũng phát hiện ra, cái quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động là nhu cầu và lợi ích. Nhu cầu của con người được hình thành một cách khách quan trong đời sống và rất phong phú, đa dạng như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu giao tiếp và sinh hoạt cộng đồng; nhu cầu phát triển về mặt thể chất và tinh thần… Nhu cầu là động lực bên trong thúc đẩy con người hoạt động. Hoạt động của con người thỏa mãn được nhu cầu này lại làm nảy sinh nhu cầu khác. Việc không ngừng nảy sinh nhu cầu mới là động lực thúc đẩy con người hoạt động, là động lực phát triển của xã hội.

Để tồn tại và phát triển, con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất, mà còn sản xuất ra của cải tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội. Các lĩnh vực sản xuất đó tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, là cái khác biệt căn bản giữa con người với động vật. C. Mác viết: "Bản thân con người, bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình"[4].

Chính sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả tính phong phú đa dạng của nó. Cho nên, xuất phát từ đời sống hiện thực của con người là phải xuất phát từ sản xuất ra của cải vật chất để đi đến các mặt khác của đời sống xã hội, tìm ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội.

Từ sản xuất, C. Mác lại phát hiện ra hai mặt không tách rời nhau: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa người với người trong sản xuất. C. Mác đã viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó"[5]. Quan hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất chính là lực lượng sản xuất, còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất chính là quan hệ sản xuất. Hai mặt đó thống nhất với nhau tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Từ nghiên cứu các quan hệ hình thành trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, C. Mác đi đến nghiên cứu các mặt khác của đời sống xã hội như chính trị, pháp quyền, các hình thái ý thức xã hội...Trong các mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp và tác động qua lại một cách biện chứng, C. Mác đã phát hiện ra: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Từ đó cho thấy: xã hội là một hệ thống, trong đó các mặt có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, làm cho xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan.

Trong khi chỉ ra sự vận động, phát triển của xã hội diễn ra theo các quy luật khách quan, triết học Mác đồng thời thừa nhận vai trò to lớn của nhân tố chủ quan. Lịch sử phát triển xã hội phải thông qua hoạt động có mục đích của con người. Sự hoạt động của con người là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật khách quan, nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng trong hoạt động thực tiễn. Khi con người chưa nhận thức được quy luật thì hoạt động của con người tự phát, mù quáng và bị quy luật chi phối. Song, khi con người nhận thức được các quy luật và những điều kiện hoạt động của chúng thì hoạt động của con người trở nên tự giác và đạt tới mục đích. Nhân tố chủ quan không làm thay đổi được xu hướng vận động, phát triển của xã hội nhưng có thể đẩy nhanh hoặc chậm sự phát triển xã hội; làm cho sự phát triển của xã hội mang hình thức này hay hình thức khác.

Như vậy, xuất phát từ sản xuất, C. Mác đã phân tích một cách khoa học mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Từ đó, C. Mác đã đi đến khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế- xã hội.

Cấu trúc xã hội - phạm trù hình thái kinh tế - xã hội[edit]

Theo quan điểm của triết học Mác, xã hội không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên giữa các cá nhân, mà là một hệ thống có cấu trúc phức tạp gồm nhiều lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực ý thức, tư tưởng; lĩnh vực các quan hệ xã hội về gia đình, giai cấp, dân tộc… Các lĩnh vực trong xã hội liên hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất biện chứng với nhau. C. Mác đã khái quát như sau:

"Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung"[6].

Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C. Mác đã vạch ra quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hội khác; nó quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. Trong tác phẩm "Lao động làm thuê và tư bản", C. Mác viết: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại"[7].

Khái quát đó của Mác đã cho chúng ta thấy được tính lắp lại hợp quy luật trong sự phát triển đa dạng của các nước khác nhau, mang lại một tiêu chuẩn thật sự khách quan để phân biệt xã hội này với xã hội khác trong lịch sử.

Trong tác phẩm "Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao", V.I. Lênin đã đánh giá như sau: "Cho đến nay, trong cái mạng lưới phức tạp những hiện tượng xã hội, những nhà xã hội học lúng túng không phân biệt được những hiện tượng nào là quan trọng, và những hiện tượng nào là không quan trọng (đó là căn nguyên của chủ nghĩa chủ quan trong xã hội học) và họ không thể tìm được một tiêu chuẩn khách quan cho sự phân biệt đó. Chủ nghĩa duy vật đã cung cấp một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan bằng cách tách riêng những quan hệ sản xuất với tư cách là cơ cấu của xã hội, và bằng cách cho chúng ta có khả năng ứng dụng vào những quan hệ ấy cái tiêu chuẩn khoa học chung về tính lặp lại, tiêu chuẩn mà phái chủ quan chủ nghĩa cho là không ứng dụng vào xã hội học được. Việc phân tích những quan hệ xã hội vật chất khiến chúng ta có thể nhận thấy được tính lặp lại và tính hợp quy luật và có thể đem chế độ của các nước khác nhau khái quát thành một khái niệm cơ bản duy nhất: hình thái xã hội"[8]

Trong mỗi hình thái kinh tế- xã hội, quan hệ sản xuất lại không tách rời lực lượng sản xuất. C. Mác chỉ ra: "Những quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất". Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo thành một phương thức sản xuất nhất định, mà trong đó lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất của hình thái kinh tế- xã hội. Mỗi hình thái kinh tế- xã hội có một lực lượng sản xuất nhất định, tức một cơ sở vật chất nhất định đặc trưng cho nó C. Mác viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp"[9].

Trong khi nhấn mạnh quan hệ sản xuất là quan hệ nguyên thủy, cơ bản, C. Mác còn chỉ ra: mỗi hình thái kinh tế- xã hội còn bao gồm các quan hệ về chính trị, pháp quyền và các hình thái ý thức xã hội. Trong đó, toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành một kết cấu kinh tế của xã hội là cơ sở thực tại (tức cơ sở hạ tầng); còn các mặt: pháp lý, chính trị và các hình thái ý thức xã hội là kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng được hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng, phù hợp với cơ sở hạ tầng.

Khi đề cập đến bộ "Tư bản", V.I. Lênin nhận xét: "Tuy rằng Mác chỉ dùng độc có những quan hệ sản xuất để giải thích cơ cấu và sự phát triển của một hình thái xã hội nhất định, song ở mọi nơi và mọi lúc, ông đều phân tích những kiến trúc thượng tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy, và đã thêm thịt, thêm da cho cái sườn đó. Bộ "Tư bản" sở dĩ được hoan nghênh nhiệt liệt, chính là vì cuốn sách đó đã vạch ra cho độc giả thấy rằng toàn bộ hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa là một cái gì sinh động với những khía cạnh của đời sống hàng ngày, với những biểu hiện cụ thể của những đối kháng giai cấp vốn có của những quan hệ sản xuất, với cái kiến trúc thượng tầng chính trị tư sản đang bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư bản, với những ý niệm tư sản về tự do, bình đẳng...với những quan hệ gia đình tư sản"[10]

Căn cứ vào tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn lịch sử, chúng ta có thể khái quát như sau: Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Phép biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội[edit]

Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế- xã hội từ thấp lên cao. Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.

Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất[edit]

Sản xuất vật chất luôn luôn được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngoài.

Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết định tất cả các mặt của đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao.

Phương thức sản xuất lại là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng: Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất lại do sự tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với kỹ năng lao động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.

Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu là "người lao động". Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Bằng sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động, nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.

Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố đồng nhất trong tư liệu sản xuất, nó không ngừng được cải tiến và hoàn thiện trong quá trình lao động sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.

Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới vừa năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.

Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất. Giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong lịch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó do quan hệ sở hữu quy định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.

Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó tác động trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong hai mặt đó, lực lượng sản xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa hai mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Để thực hiện điều đó, con người không ngừng cải tiến và đổi mới công cụ lao động; đồng thời với quá trình đó, trình độ của người lao động cũng không ngừng được nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu, và do đó lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ công cụ lao động, trình độ người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử là thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Tính xã hội ở trình độ cao là có tính quốc tế.

Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là quan hệ sản xuất tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, và do đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định lại làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C. Mác viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"[1]

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học vào sản xuất ... và do đó, tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội. Nó chi phối sự vận động, phát triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.

Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.[edit]

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế- xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.

Như vậy, xét trong phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật...cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội...được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Trong kiến trúc thượng tầng có nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng, song yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn các yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp.

Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị, tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng, trong đó, đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị- tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong chính trị, Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có Nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế- xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; song kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng giữ địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị, tư tưởng là biểu hiện những đối kháng giai cấp trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như Nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo... đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C. Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng"[2]

Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay thế hình thái kinh tế- xã hội này bằng hình thái kinh tế- xã hội khác, mà còn diễn ra trong quá trình biến đổi của mỗi một hình thái kinh tế- xã hội. Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền; nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật...Trong xã hội có giai cấp, thay đổi kiến trúc thượng tầng phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.

Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng kiến trúc thượng tầng lại có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động, phát triển và có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.

Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì nó là bộ máy quyền lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo...cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng bị Nhà nước, pháp luật chi phối.

Sự tác động của các yếu tố kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thường diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau. Trong đó, chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Mỗi giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã hội.

Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được xu hướng phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên[edit]

Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế- xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, C. Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên"[3] Khẳng định "sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên" là khẳng định: các hình thái kinh tế- xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. V.I. Lênin viết: "Mác coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người"[4]

Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù. Các quy luật vận động phát triển phổ biến của xã hội là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế- xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao.

Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà các hình thái kinh tế- xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế- xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. V.I. Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"[5]. Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao, đó là con đường phát triển chung của nhân loại.

Tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc, như về điều kiện tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về tác động quốc tế...Vì vậy, lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa rất phong phú, đa dạng. V.I. Lênin đã chỉ ra: "Tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn

phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển"[6]. Tính phong phú đa dạng nói lên tính độc đáo riêng trong

lịch sử phát triển của mỗi dân tộc. Tính phong phú đa dạng đó một mặt thể hiện ở chỗ: cùng một hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở các nước khác nhau có những hình thức cụ thể khác nhau; mặt khác thể hiện: có những dân tộc lần lượt trải qua tất cả các hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử- tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế- xã hội nhất định.

Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế- xã hội[edit]

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò chi phối trong việc giải thích về đời sống xã hội. Sự ra đời lý luận hình thái kinh tế- xã hội là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội. Lý luận đó đưa lại quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị, và tinh thần nói chung. Lý luận đó cũng chỉ ra xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt, các lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Đồng thời, lý luận đó cũng chỉ ra động lực bên trong của sự vận động phát triển xã hội; chỉ ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, và do đó chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thật sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.

Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất: Lý luận hình thái kinh tế- xã hội chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Điều đó cho thấy, không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của con người để giải thích về đời sống xã hội, mà ngược lại, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội từ trong sản xuất, từ phương thức sản xuất. Sự thắng lợi của xã hội này đối với xã hội khác, suy đến cùng phải tạo ra được một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, năng suất lao động cao hơn phương thức sản xuất cũ.

Thứ hai: Lý luận hình thái kinh tế- xã hội chỉ ra, xã hội không phải là một sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội; quan hệ sản xuất lại phải phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Trong đó, phân tích quan hệ sản xuất không thể tách rời lực lượng sản xuất; phân tích các quan hệ xã hội không thể tách rời quan hệ sản xuất. Việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến hành một cách đồng bộ tất cả các mặt của đời sống xã hội: từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, trong đó xây dựng lực lượng sản xuất mới là cái có ý nghĩa quyết định.

Thứ ba: Lý luận hình thái kinh tế- xã hội chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng về đời sống xã hội, về vận động phát triển của xã hội phải đi sâu nghiên cứu tìm ra được các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội nói chung, từng xã hội cụ thể nói riêng. V.I. Lênin viết: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"[7]. Việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.

Thứ tư: Lý luận hình thái kinh tế- xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử- cụ thể mà có con đường phát triển riêng, đặc thù. Điều đó cho thấy, để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc phải kết hợp chặt chẽ giữa việc nghiên cứu những quy luật chung với việc nghiên cứu một cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc về điều kiện tự nhiên, về truyền thống văn hóa, về quan hệ giai cấp về điều kiện quốc tế... Điều đó cũng có nghĩa là phải kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgíc với phương pháp lịch sử trong nghiên cứu con đường phát triển của mỗi dân tộc. Trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải vận dụng một cách sáng tạo những quy luật chung vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc để tìm ra con đường đi một cách đúng đắn nhất.

Kể từ khi C. Mác xây dựng nên lý luận hình thái kinh tế- xã hội cho đến nay, loài người đã có nhiều bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp luận thật sự khoa học đối với nhận thức và thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, theo V.I. Lênin, lý luận đó "không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra phương pháp... duy nhất khoa học để giải thích lịch sử"[8]

Ngày nay có quan điểm cho rằng cần thay thế lý luận đó bằng cách tiếp cận khác, nhất là cách tiếp cận theo các nền văn minh. Theo cách tiếp cận này, người ta phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay còn gọi là văn minh trí tuệ, văn minh tin học). Đây là cách phân chia được sử dụng khá rộng rãi hiện nay. Một trong những đại biểu xuất sắc của cách tiếp cận này là ông Alvin Toffler, nhà tương lai học nổi tiếng người Mỹ. Tư tưởng về ba nền văn minh được thể hiện tập trung trong cuốn sách "Làn sóng thứ ba" của ông. Trong đó, ông đã phân chia lịch sử phát triển của nhân loại cho đến nay thành ba làn sóng (hay ba nền văn minh). Có thể khái quát ba làn sóng (ba nền văn minh) mà ông đã phân chia như sau:

Làn sóng thứ nhất (bắt đầu từ xã hội nguyên thủy chuyển lên văn minh nông nghiệp). Thời nguyên thủy, con người sống theo thị tộc, bộ lạc và có tính bầy đàn, sinh sống bằng câu cá, săn bắn, hái lượm sau đó chuyển lên văn minh nông nghiệp. Trong nền văn minh này, hình thành nên làng mạc, sống định cư, đi vào sản xuất nông nghiệp, đất đai là cơ sở kinh tế. Đời sống được tổ chức xung quanh làng mạc, sự phân công lao động còn đơn giản. Nền kinh tế khép kín, mỗi cộng đồng tự sản xuất hầu hết các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu riêng của mình.

Làn sóng thứ hai (hay văn minh công nghiệp). Từ văn minh nông nghiệp, xã hội loài người chuyển lên văn minh công nghiệp. Nền văn minh này bắt đầu từ những năm 1650- 1750. Nó được thực hiện thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Trong nền văn minh này, phân công lao động xã hội sâu sắc: chuyên môn hóa và tập trung hóa sản xuất. Công nghiệp phát triển và giữ vai trò thống trị trong nền kinh tế.

Làn sóng thứ ba (hay văn minh hậu công nghiệp) bắt đầu ở Mỹ từ năm 1955, sau đó đến Anh, Pháp, Đức, Nhật...Nền văn minh này gắn liền với việc ra đời những ngành khoa học mới vào những năm 50 của thế kỷ XX, như: lượng tử, tin học, sinh học phân tử, đại dương học, kỹ thuật hạt nhân, sinh thái học, khoa học về vũ trụ... Từ đó, xuất hiện những ngành công nghiệp mới như: công nghiệp điện tử, công nghiệp vũ trụ, xử lý thông tin, công nghiệp gen... Con người đi vào sử dụng các năng lượng mới như: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng dưới lòng đất...

Cách phân chia lịch sử phát triển của xã hội thành ba nền văn minh, mặc dầu có đề cập đến các mặt khác của đời sống xã hội, nhưng chủ yếu tập trung vào sự phát triển của sản xuất, vào trình độ phát triển của kinh tế. Suy đến cùng, cách phân chia này dựa vào ba trình độ phát triển cơ bản của lực lượng sản xuất: thủ công, đại công nghiệp cơ khí, và công nghệ hiện đại do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang lại.

Cách tiếp cận sự phát triển của xã hội theo ba nền văn minh có ý nghĩa trong việc phân chia các thời đại kinh tế, trong việc xem xét trình độ kinh tế của mỗi nước, cũng như các giai đoạn tất yếu phải trải qua trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cách tiếp cận đó không nêu ra được cơ sở phân chia các chế độ xã hội, cũng không chỉ ra được mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và quy luật thay thế xã hội này bằng xã hội khác cao hơn. Chính vì vậy nó không thể thay thế được lý luận hình thái kinh tế- xã hội.

Tham khảo[edit]

  1. 1.0 1.1 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 27
  2. 2.0 2.1 Sđd, tr 37-38
  3. 3.0 3.1 Sđd, tr 39 - 40
  4. 4.0 4.1 Sđd, tr 29
  5. 5.0 5.1 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004, tr.552
  6. 6.0 6.1 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 14- 15
  7. 7.0 7.1 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004, tr. 553
  8. 8.0 8.1 V.I. Lênin, Toàn tập, tập 1, NXB Tiến bộ, M.1974, tr.162- 163
  9. C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 187
  10. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 1, NXB Tiến bộ, M.1974, tr. 164- 165