Triết học không chuyên/8/Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

From Wikiversity

Dự báo của C. Mác và V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội[edit]

C. Mác và Ph. Ăng ghen đã vận dụng lý luận hình thái kinh tế- xã hội để phân tích một xã hội hiện thực là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời hình thái kinh tế- xã hội mới cao hơn - hình thái cộng sản chủ nghĩa- mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

C. Mác và Ph. Ăng ghen đánh giá cao vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng. Đó là lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nền đại công nghiệp và giai cấp vô sản càng phát triển. Chính sự ra đời của nền đại công nghiệp đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với xã hội phong kiến, thì đến lượt nó, sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nên sản xuất có tính chất xã hội lại mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi phải "thủ tiêu mâu thuẫn ấy", phải "tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng là những lực lượng sản xuất xã hội"[1]. Điều đó có nghĩa là, phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ sở hữu có tính chất xã hội- chế độ công hữu. Và do đó, một xã hội mới ra đời thay thế chủ nghĩa tư bản- đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải theo ý muốn chủ quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Do đó, nó phải vừa kế thừa, phát triển các thành tựu văn minh đạt được trong lòng xã hội tư bản, vừa xóa bỏ tính chất tư bản của nó; giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, mang lại quyền tự do, bình đẳng và các giá trị đích thực của con người.

Để đi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải thông qua cách mạng vô sản. C. Mác và Ph. Ăng ghen dự báo rằng: "Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời sẩy ra trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Trong mỗi một nước đó, cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm, là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn"[2].

Trong khi dự báo cách mạng vô sản trước hết nổ ra ở các nước tư bản phát triển, hai ông cũng cho rằng: khi giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến đã giành được chính quyền, với kinh nghiệm và sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước đó, các nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường "rút ngắn", từng bước lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đến giai đoạn này, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản đã đạt đến trình độ cao, và theo V.I Lênin, nó làm cho "những quan hệ sản xuất xã hội đang thay đổi", làm cho "những quan hệ kinh tế- tư nhân và những quan hệ tư hữu là một cái vỏ không còn phù hợp với nội dung của nó nữa"[3]. Điều đó đòi hỏi phải làm cách mạng vô sản để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xác lập chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

V.I Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, từ đó đã đi đến kết luận mới về cách mạng vô sản, về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Ông viết: "Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa tách riêng ra mà nói"[4].

Dự đoán của V.I Lênin đã trở thành sự thất. Tháng 10 năm 1917, cách mạng vô sản đã nổ ra và thắng lợi ở nước Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Song nước Nga khi đó còn là một nước lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, quan hệ gia trưởng và sản xuất nhỏ còn nặng nề. Trong điều kiện đó, V.I Lênin đã phát triển sáng tạo lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông đã chỉ ra hai con đường cơ bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước tư bản phát triển.

Con đường thứ hai: quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.

V.I Lênin viết: "Không nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển trong đó công nhân làm thuê trong công nghiệp và nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số dân cư...chỉ có một giai cấp như vậy mới có thể là chỗ dựa về mặt xã hội, kinh tế và chính trị cho sự chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ trong những nước mà giai cấp ấy đã phát triển đầy đủ, thì mới có thể trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà không cần đến những biện pháp quá độ đặc biệt có tính chất toàn quốc... Ở Nga, công nhân công nghiệp là thiểu số, còn tiểu nông là tuyệt đại đa số. Trong một nước như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến...Điều kiện nữa là sự thỏa thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân"[5]. V.I Lênin đã phân tích một cách cụ thể tình hình kinh tế nước Nga, và chỉ ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước Nga còn lạc hậu. Ông thừa nhận kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích phát triển sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhằm chiến thắng tình trạng nghèo nàn của đất nước. Trong đó, V.I Lênin đặc biệt nhấn mạnh lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước, làm khâu trung gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. V.I Lênin viết: "Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất"[6].

Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và vai trò lịch sử của mô hình đó[edit]

Năm 1924, V.I Lênin mất. Từ đó Liên Xô chuyển dần sang xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó có những đặc trưng cơ bản sau:

  • Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể.
  • Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như thế nào được quyết định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh.
  • Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng hiện vật là chủ yếu, xem nhẹ các quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
  • Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các biện pháp kinh tế.

Trong điều kiện Liên Xô bị các nước tư bản bao vây, mô hình đó đã có vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, Liên Xô đã thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, tạo ra được một nền công nghiệp hiện đại. Đến khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhân dân Liên Xô phải tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong điều kiện đó, mô hình kế hoạch hóa tập trung một lần nữa phát huy vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của cho chiến tranh- một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh.

Với những thắng lợi to lớn mà nhân dân Liên Xô đạt được, đã dẫn đến quan điểm cho rằng: mô hình kế hoạch hóa tập trung là mô hình kinh tế của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế thị trường là mô hình kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Từ đó, sau chiến tranh thế giới thứ hai, tất cả các nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa đều theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Song, mô hình đó đã dần dần bộc lộ những hạn chế của nó, như: không khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát huy được nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của con người trong quá trình lao động sản xuất, không đẩy nhanh được sự tiến bộ khoa học và công nghệ, không mở rộng được quan hệ kinh tế quốc tế... Từ đó, năng suất lao động xã hội thấp, hàng hóa nghèo nàn và chất lượng kém... Đồng thời cũng đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí. Điều đó chứng tỏ mô hình đó không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Mô hình đó không còn thích hợp nữa, nhưng do chậm nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế- xã hội trong hệ thống xã hội chủ nghĩa được xác lập sau cách mạng tháng Mười Nga. Sự khủng hoảng đó đã dẫn đến sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Thực chất sự sụp đổ đó là sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp.

Những biểu hiện mới của thời đại và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội[edit]

Trong lúc chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng trầm trọng dẫn đến sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, thì chủ nghĩa tư bản lại đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ, cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Từ đó, có quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lý tưởng hóa chủ nghĩa tư bản. Thực chất quan điểm đó đã đồng nhất chủ nghĩa xã hội với mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp; đồng nhất những thành tựu đạt được của nhân loại với chủ nghĩa tư bản. Rõ ràng, đây là sự lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất; giữa ngẫu nhiên với tất nhiên của lịch sử.

Như trên đã phân tích, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước đây ra đời trong một điều kiện đặc biệt và nó đã phát huy tác dụng tích cực trong điều kiện đó. Khi điều kiện lịch sử thay đổi, mô hình đó không còn phù hợp nữa, nhưng không sớm phát hiện để đổi mới, làm cho mâu thuẫn kinh tế- xã hội trở nên sâu sắc và đã dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ. Đây là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, việc xây dựng một xã hội mới là một việc hết sức khó khăn, phức tạp, những vấp váp, thậm chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh khỏi. Những đổ vỡ đó không phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát triển tất yếu của xã hội, mà là mang lại những kinh nghiệm để nhận thức ngày càng đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội lại không thể tách rời nhận thức một cách đúng đắn về sự vận động, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đạt được trong thời gian qua chứng tỏ vai trò lịch sử của nó chưa chấm dứt. Song, chính những thành tựu đó lại trở thành cái đối lập với chủ nghĩa tư bản, thành những tiền đề vật chất cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội. Các dự báo về chủ nghĩa xã hội phải dựa trên những tiền đề hiện thực đó. Việc phân tích một cách khách quan các đặc điểm, các xu hướng vận động phát triển của xã hội loài người hiện nay là cơ sở của các dự đoán khoa học về chủ nghĩa xã hội.

Những biến đổi trong thời đại chúng ta không thể tách rời cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cũng như những thành tựu do cuộc cách mạng đó mang lại. Trong lịch sử, cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu vào thế ký XVIII- XIX đã tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí, và nó là nền tảng vật chất cho sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến. Ngày nay, chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ tạo ra tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng xã hội mới cao hơn- chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cuộc cách mạng này được bắt đầu vào giữa thế kỷ XX và phát triển rất nhanh chóng, nhất là từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Nó làm cho lực lượng sản xuất thay đổi một cách căn bản: chuyền từ công nghiệp cơ khí lên sản xuất tự động, sử dụng ngày càng phổ biến các công nghệ hiện đại, các nguyên vật liệu mới và các nguồn năng lượng mới.

Cuộc cách mạng đó đã biến "khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp", làm cho người lao động ngày càng được trí tuệ hóa và lao động trí tuệ ngày càng trở thành lực lượng lao động chủ yếu. Sản xuất phát triển theo chiều sâu, hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm (hiện nay các sản phẩm có chất lượng cao, hàm lượng chất xám chiếm khoảng 60 - 70% giá thành sản phẩm). Với vị trí có tính quyết định của khoa học, công nghệ và lao động trí tuệ trong nền sản xuất hiện đại, kinh tế thế giới đã chuyển lên một trình độ mới về chất- kinh tế tri thức. Vấn đề hình thành, phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có tính thời sự.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quá trình phân công lao động diễn ra ngày càng sâu sắc. Quá trình phân công lao động trong thời đại hiện nay không chỉ diễn ra trong phạm vi một nước, mà còn trên phạm vi quốc tế và khu vực. Điều đó đã làm cho lực lượng sản xuất mang tính quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa là một xu hướng phát triển tất yếu của nhân loại và hội nhập kinh tế quốc tế cũng được đặt ra đối với tất cả các nước.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong thời đại chúng ta đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển thay đổi căn bản về chất. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã kéo theo làm thay đổi tất cả các mặt của đời sống xã hội. Những sự thay đổi đó là những tiền đề vật chất cần thiết cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những thành tựu đó là kết quả của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng đồng thời nó lại trở thành cái đối lập với chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ đưa giải quyết, và chủ nghĩa tư bản sẽ mất đi, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ ra đời thay thế. Sự ra đời chủ nghĩa xã hội là kết quả hợp quy luật do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tạo ra. Cho nên, vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng của thời đại. Vấn đề đó được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác nhau và sẽ được giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.

Về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam[edit]

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - sự vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế- xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam[edit]

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau- Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta. Điều đó thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất: Mặc dầu chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và sụp đổ, nhưng đó là sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, chứ không phải chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản mặc dầu chưa hết vai trò lịch sử, và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là khoa học và công nghệ, nhưng những thành tựu chủ nghĩa tư bản tạo ra, đến lượt nó lại trở thành cái phủ định chủ nghĩa tư bản và thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn-chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Và vì vậy, lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại.

Thứ hai: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ năm 1930. Với thử thách của thời gian, con đường đó đã từng bước được hiện thực hóa trên đất nước Việt Nam. Mặc dầu có những vấp váp, sai lầm, nhưng con đường đó đã mang lại bao nhiêu thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội và trở thành cuộc sống hiện thực của nhân dân ta. Đại đa số nhân dân ta vẫn tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội, đấu tranh vì sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng "đó là xã hội:

  • Do nhân dân lao động làm chủ;
  • Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu;
  • Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
  • Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
  • Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
  • Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới"[7].
  • Mục tiêu chung mà Đảng ta đề ra là: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"[8]

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta chỉ rõ: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong cách lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ"[9]

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ - sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế- xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam[edit]

Lý luận hình thái kinh tế- xã hội chỉ ra, mỗi hình thái kinh tế- xã hội có một lực lượng sản xuất của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất- kỹ thuật của nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái thiếu thốn nhất của chúng ta chính là chưa có nền đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa để đạt tới trình độ công nghệ hiện đại mà nhân loại đã tạo ra. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra: "Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi tế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa"[10] Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội[edit]

Trong khi khẳng định vai trò của lực lượng sản xuất, lý luận hình thái kinh tế- xã hội còn chỉ ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất phải gắn liền với việc xác lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta khẳng định: "Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối"[11]

Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng ta chủ trương sử dụng "nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế". Đồng thời, "thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"[12]

Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: " Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân"[13].

Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội[edit]

Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống xã hội.

Tóm lại, lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một lý luận khoa học Nó cho chúng ta một quan điểm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội; về sự vận động, phát triển của xã hội. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thật sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội, đề từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Lý luận đó đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tham khảo[edit]

  1. C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 20, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 385
  2. C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, tập 4, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 472
  3. V.I Lênin, Toàn tập, tập 27, NXB Tiến bộ, M.1980, tr. 539
  4. V.I Lênin, Toàn tập, tập 27, NXB Tiến bộ, M.1980, tr. 539
  5. V.I Lênin, Toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ, M.1978, tr. 68-69
  6. Sđd, tập 43, tr.376.
  7. V.I Lênin, Toàn tập, tập 43, NXB Tiến bộ, M.1978, tr. 68-69.
  8. Đảng cộng sản Việt Nam- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2001, tr. 79-80
  9. Sđd, tr. 84-85.
  10. Sđd, tr. 91
  11. Sđd, tr. 87
  12. Sđd, tr. 86.
  13. Sđd, tr. 87.