Lịch sử 9/Việt Nam trong năm đầu sau đại thắng Xuân 1975

From Wikiversity

Tình hình 2 miền Bắc – Nam sau đại thắng mùa Xuân 1975[edit]

– Thuận lợi:

+ Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975) đã đạt những thành tựu to lớn.

+ Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền trung ương Sài Gòn sụp đổ.

– Khó khăn:

+ Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc.

+ Ở miền Nam, những di hại của xã hội cũ còn tồn tại, nhiều làng mạc bị tàn phá, nhiều ruộng đất bị bỏ hoang, đội ngũ thất nghiệp lên tới hàng triệu người…

Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở hai miền đất nước[edit]

Ở miền Bắc[edit]

– Đến giữa năm 1976, miền Bắc căn bản hoàn thành nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế.

– Trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 6 tháng cuối năm 1975 và 6 tháng đầu năm 1976, miền Bắc có những tiến bộ đáng kể:

+ Diện tích trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp năm 1976 đều tăng hơn năm 1975.

+ Nhiều công trình, nhà máy được mở rộng và xây dựng mới.

+ Sản lượng phần lớn các sản phẩm quan trọng đều đạt và vượt mức trước chiến tranh.

+ Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh.

– Miền Bắc còn làm nghĩa vụ của căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế đối với Lào, Campuchia trong thời kì mới.

Ở miền Nam[edit]

– Khẩn trương tiến hành công việc tiếp quản vùng mới giải phóng.

– Thành lập chính quyền cách mạng và đoàn thể quần chúng các cấp nhanh chóng được thực hiện. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng,... chính quyền cách mạng tuyên bố thành lập ngay sau khi được giải phóng.

– Hàng triệu đồng bào, trong thời gian chiến tranh bị dồn vào các “ấp chiến lược” hay bỏ chạy vào các thành phố, không có việc làm, được hồi hương, chuyển về nông thôn tham gia sản xuất hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới.

– Chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của bọn phản động trốn ra nước ngoài, tuyên bố xóa bỏ quan hệ bóc lột phong kiến, tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân, quốc hữu hóa ngân hàng, thay đồng tiền cũ bằng đồng tiền mới của cách mạng.

– Chính quyền cách mạng chú trọng khôi phục sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cấp bách và lâu dài của nhân dân về lương thực. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp, cả những cơ sở bị gián đoạn quan hệ với nước ngoài, đều trở lại hoạt động.

– Các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế,... được tiến hành khẩn trương.

Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975 – 1976)[edit]

– Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tiến hành, với hơn 23 triệu cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 492 đại biểu. Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất họp kỳ đầu tiên.

– Nội dung của Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI: Thông qua các chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước.

+ Quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyết định Quốc huy, Quốc kỳ, Quốc ca. Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Quốc hội bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bầu Ban dự thảo Hiến pháp.

– Ý nghĩa:

+ Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước.

+ Tạo những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước.

Tham khảo[edit]

  • SGK Lịch sử 9 (trang 166, 167, 168, 169) – NXB Giáo dục Việt Nam, tái bản lần thứ mười lăm.