Lịch sử phát triển Thiền tông

From Wikiversity

Lịch sử[edit]

Thiền Tông được hình thành khi Đức Phật truyền y bát cho ngài tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm sơ tổ và hình thành nên Thiền Tông qua sự tiếp nối và kế thừa của 28 đời tổ sư, còn gọi là Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ . Tuy nhiên, có người cho rằng việc Đức Phật truyền thừa y bát cho Tổ Ma-ha-ca-diếp không được nhắc đến trong các Kinh điển Nam Tông, Bắc Tông, vì thế vấn đề này khiến cho nhiều học giả nghi ngờ. Để chứng minh về tính chính thống của Thiền Tông, ở trong tác phẩm Thiền Gia Quy Giám của Đại sư Tây Sơn, Cao Tăng Thiền phái Tào Khê Hàn Quốc , đã đưa ra ba sự kiện trong Kinh điển để thể hiện việc Đức Phật truyền tâm ấn cho Tổ Ma-ha-ca-diếp:

  1. Lần thứ nhất, khi ở trong hội Linh Thứu, có ngoại đạo đem hoa đến cúng dường, Đức Phật nâng cành sen lên dạy chúng, cả hội chúng đều ngơ ngác, không hiểu lời Phật dạy, duy chỉ có ngài Ca diếp mỉm cười, biểu thị cho sự ngộ nhập Tự Tính. Câu chuyện này được trích trong Đại Phạm Thiên Vương vấn Phật Quyết Nghi Kinh,
  2. Lần thứ hai, ở dưới tháp Đa Bảo, Đức Phật chia nửa tòa thuyết pháp và bảo Ca Diếp ngồi, đem y cà sa Tăng-già-lê khoác lên người Ca Diếp. Sự kiện này được lấy từ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
  3. Lần thứ ba, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài Ca Diếp ở xa thuyết pháp chưa dến kịp, đại chúng muốn trà tỳ nhục thân Đức Thế Tông nhưng không được, đến khi ngài Ca Diếp đến bên quan tài thì tự nhiên quan tài mở ra, để lộ bàn chân của Thế Tôn. Sự việc này được trích dẫn từ Kinh Đại Bát Niết Bàn.

Trước khi Tổ Ma Ha Ca Diếp nhập diệt, sư đem chính pháp nhãn tạng và y bát truyền lại cho Tôn giả A-nan kế làm Nhị Tổ và cứ như thế truyền qua 28 đời, mỗi đời chỉ chọn duy nhất một người làm Tổ kế vị. Thiền Tông tại Ấn Độ có phần mang tư tưởng Nam Tông như Tứ Thánh Quả A-La-Hán và việc thực hành Thiền định. Và đến thời của tổ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, trước tình trạng suy tàn Phật Giáo ở Ấn Độ, và theo sự căn dặn của Tổ Bát-nhã-đa-la, Thiền Tông được truyền sang Trung Quốc.

Thiền tông tại Trung Quốc[edit]

Thiền tại Trung Quốc có quá trình lịch sử lâu dài, với nhiều sự thăng trầm, biến đổi. Các học giả Phương Tây về Phật Giáo chia Thiền thành nhiều giai đoạn phát triển khác nhau tại Trung Quốc. Học giả Ferguson chia lịch sử Thiền Tông Trung Quốc thành ba thời kỳ từ thế kỷ 5-13:

1) Thời kỳ Huyền Thoại ( The Legendary period) : từ khi Bồ Đề Đạt Ma truyền Thiền vào Trung Quốc cho đến cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn vào năm 765, các tài liệu về Thiền Tông thời này khá hiếm hoi. Đây là thời kỳ diễn ra sự truyền pháp giữa 6 vị Tổ sư Thiền Tông, từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng. Và phân chia giữa Truyền Thống Thiền Nam Tông với đại diện là Lục Tổ Huệ NăngThiền Bắc Tông với đại diện là Ngọc Tuyền Thần Tú.

2) Thời kỳ Cổ Điển ( The Classical period) : từ cuối cuộc nổi loạn An Lộc Sơn(765) cho đến thời kỳ đầu Nhà Tống(950). Đây là thời gian sản sinh ra nhiều vị Thiền sư danh tiếng như Mã Tổ Đạo Nhất, Lâm Tế Nghĩa Huyền và sự ra đời của các bản Ngữ Lục( yü-lü), là các tập sách ghi lại hành trạng và công án, pháp ngữ của các Thiền sư. Đây là thời kỳ vàng son của Thiền dưới triều nhà Đường.

3) Thời Kỳ Văn Học( The Literary period): từ khoảng năm 950 đến năm 1250, trong thời gian này, các bộ sưu tập Công Án Thiền đã được biên soạn, các tập Ngữ Lục của các Thiền sư được thêm vào phần lời bình và kệ tụng, Đặc biệt là quyển Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi lại hành trạng, pháp ngữ của hàng ngàn vị Thiền sư Trung Quốc từ sơ khai cho đến Pháp Nhãn Văn Ích. Đây là thời kỳ nối tiếp thời kỳ vàng son nhà Đường.

Còn một học giả tên là McRae chia Lịch sử Thiền Tông Trung Quốc thành 4 thời kỳ:

  1. Thời kỳ sơ khai ( 500-600) : thời đại Nam Bắc triều (420 -589) và Nhà Tùy (589-618 ). Trong giai đoạn này,Thiền đã phát triển ở nhiều địa điểm ở miền bắc Trung Quốc. Và được dựa trên sự thực hành của Thiền định (dhyana) ,có sự kết nối với các nhân vật như Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả. Tác phẩm nổi bật nhất thời kỳ này được biết đến là Nhị Nhập Tứ Hanh Luận, được cho là sáng tác của tổ Bồ Đề Đạt Ma.
  2. Thời kỳ đầu ( 600-900). Trong giai đoạn này, Thiền đã bắt đầu trở nên nổi trội và phát triển hơn. Những nhân vật tiêu biểu thời này là Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674),đệ tử Thần Tú (606 -706), hay Lục Tổ Huệ Năng (638-713), nhân vật chính trong Pháp Bảo Bảo Đàn Kinh , và Hà Trạch Thần Hội (670-762 ), người đã chỉ trích Thiền của Thần Tú là Thiền không chính thống và đưa Thiền của Huệ Năng lên vị trí chính, được chính thức triều đình bấy giờ công nhận là dòng truyền trực tiếp. Các tông phái chính thời bấy giờ là Thiền Nam Tông, Thiền Bắc TôngNgưu Đầu Thiền.
  3. Thời kỳ Trung Thiền 750 - 1000) Trong giai đoạn Thiền này đã phát triển mạnh mẽ với các vị thiền sư nổi tiếng. Nổi bất nhất là Mã Tổ Đạo Nhất (709 -788), Thạch Đầu Hi Thiên (710-790), Lâm Tế Nghĩa Huyền (?- 867) và Tuyết Phong Nghĩa Tồn (822 - 908). Các phái chính là Thiền Hồng Châu của Mã Tổ và Thiền Hà Bắc của Thạch Đầu Một văn bản quan trọng là Tuyển tập các vị tổ sư (952), và đưa ra một số lượng lớn "câu chuyện gặp gỡ", và gia phả nổi tiếng về các vị thiền sư của Thiền Tông Trung Quốc..
  4. Thời kỳ nhà Tống (950 -1300). Trong giai đoạn này, Thiền đã có hình dạng đầy đủ của nó về bức tranh "thời hoàng kim" của Thiền thời nhà Đường, và việc sử dụng các công án Thiền cho việc tham cứu tu hành. Các nhân vật chính là Đại Huệ Tông Cảo (1089 -1163 ), người đã đề xướng phương pháp Thiền Thoại Đầu và Hoằng Trí Chính Giác (1091-1157) thì đã nhấn mạnh vào việc thực hành Thiền Mặc Chiếu(Shikantaza) . Các tông phái chính là Tông Lâm TếTông Tào Động . Các bộ tuyên tập công án như Bích Nham Lục đã được sáng tác trong giai đoạn này, phản ánh tính chất Văn Học trong sự phát triển của Thiền Tông. Trong giai đoạn này, Thiền được truyền đến Nhật Bản và gây ảnh hưởng lớn đến Thiền Tông Hàn Quốc thông qua Trí Nột.

Tuy nhiên, cả Ferguson và McRae đều không đưa ra một thời kỳ nhất định cho Thiền Trung Quốc từ sau triều Tống. nhỏ|Bức họa Huệ Khả dâng cánh tay lên Bồ Đề Đạt Ma cầu pháp, Sesshū Tōyō (1496)

Thời kỳ hình thành (500-600)[edit]

Thiền Tông được Bồ Đề Đạt Ma truyền qua Trung Quốc vào năm 520, tương truyền sư từng đến gặp Vua Lương Vũ Đế để truyền Phật Pháp nhưng thấy cơ duyên không hợp nên đến chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn và quay mặt vào vách ngồi Thiền hơn 9 năm để chờ người có duyên hỏi đạo, Trong số những người hiếu kỳ và mến mộ đối với Thiền pháp của Đạt Ma, có vị tăng Thần Quang là người có chí khí và quyết tâm cao tột nhất, theo truyền thuyết, Thần Quang đã quỳ dưới tuyết nhiều ngày thầm mong Đạt Ma chấp nhận và chỉ dạy, nhưng Đạt Ma vẫn im lặng tọa Thiền, và Thần Quang đã chặt một cánh tay dâng lên Đạt Ma để thể hiện lòng cầu đạo thiết tha của mình. Qua cuộc vấn đáp giữa Bồ Đề Đạt Ma và Thần Quang, mà sau này trở thành một trong những công án nổi tiếng của Thiền Tông, Thần Quang khai ngộ và sau đó chính thức được truyền y bát, tâm ấn trở thành Nhị Tổ Huệ Khả của Thiền Tông Trung Quốc. Bồ Đề Đạt Ma cũng được xem là người đã đưa nền tảng Kinh Nhập Lăng Già, 4 quyển vào Trung Quốc và trao cho Huệ Khả, những tác phẩm về tư tưởng Thiền đầu tiên có ảnh hưởng ở Trung Quốc được cho là do Tổ Đạt Ma sáng tác như : Đạt ma luận, Nhị nhập tứ hành luận. Từ vị sơ tổ Bồ -đề-đạt-ma cho đến Tam Tổ Tăng Xán, thời thế lúc bấy giờ khá loạn lạc, các vị Tổ này thường ẩn dật nên Thiền Tông ít được biết đến nhiều. Ngoài ra, còn có bài Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán rất có giá trị về mặt Thiền học.

Thời kỳ đầu (600-700)[edit]

Thiền Tông thời kỳ này bắt đầu phát triển mạnh mẽ, dưới thời Tứ Tổ Đạo Tín, dần Thiền Tông lan rộng ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp dân cư và có đông đảo người tu học. Từ Đạo Tín có hai đệ tử xuất sắc là Ngũ Tổ Hoằng NhẫnNgưu Đầu Pháp Dung. Dưới Ngưu Đầu Pháp Dung, hình thành nên Tông Ngưu Đầu với nhiều vị Thiền sư danh tiếng, và dưới hội của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thì hình thành nên Pháp Môn Đông Sơn lấy kinh Kim Cang làm gốc để thay thế cho Kinh Nhập Lăng Già, với nhiều vị đệ tử xuất sắc như Ngọc Tuyền Thần Tú, Tung Nhạc Huệ An Quốc Sư hay Lục Tổ Huệ Năng đã làm cho phạm vi ảnh hưởng của Thiền Tông ngày càng sâu đậm. Nói về Lục Tổ Huệ Năng, sư vốn sinh ra trong gia đình nghèo khó, cha mất sớm, làm lụng nuôi mẹ già, sau nhân nghe một vị cư sĩ tụng Kinh Kim Cang mà ngộ Thiền, đến khi gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn triệt ngộ và được truyền y bát tổ sư. Qua câu chuyện về Lục Tổ đã chứng minh tính siêu việt của Thiền, Lục Tổ không biết chữ, ít được tiếp cận, xem Kinh giáo nhưng vẫn có thể đại ngộ và được truyền y bát, từ đó đã đả phá quan niệm sai lầm cho rằng Thiền Tông chỉ phù hợp với các tầng lớp Trí Thức, và cần phải có tri thức mới có thể tu hành, mà trái lại, văn tự, kiến giải nếu chấp nơi nó cũng là trở ngại lớn đối với con đường tu hành của Thiền Tông. Từ hai vị Lục Tổ Huệ Năng và Ngọc Tuyền Thần Tú đã hình thành nên hai tư tưởng Thiền đối lập nhau. Lục Tổ Huệ Năng đại diện cho Thiền Nam Tông chủ trương pháp Đốn Ngộ- cho rằng mọi người đều có thể ngộ đạo mà không cần phải trải qua nhiều cấp bập tu chứng, đó là cái ngộ nhanh chóng, siêu việt, ngay đó trực nhận được bản thể Phật Tính của mình. Còn phía Ngọc Tuyền Thần Tú đại diện cho Thiền Bắc Tông thì chủ trương pháp Tiệm Tu, cho rằng tu hành cần phải trải qua nhiều cấp bậc, thứ lớp khác nhau. Thời kỳ này cũng diễn ra sự tranh luận về vấn đề thừa kế y bát và danh hiệu Tổ sư đời thứ sáu, phía các môn đệ Thần Tú trong Thiền Bắc Tông tự đưa Thần Tú lên danh hiệu Lục Tổ Thiền Tông và phủ nhận sự truyền thừa của Lục Tổ Huệ Năng. Cuối cùng, Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, môn đệ của Lục Tổ Huệ Năng đã lập pháp hội để xác định tông chỉ, tính chính thống của Thiền Nam Tông Lục Tổ Huệ Năng và chỉ trích những sai lầm, tiêu cực của Thiền Bắc Tông Thần Tú và khiến cho cả giới triều định thời bấy giờ khâm phục và công nhận Lục Tổ Huệ Năng là Thiền Tông chính Tông. Thời này, tác phẩm tiêu biểu nhất là Pháp Bảo Đàn Kinh, ghi lại hành trạng và những lời dạy, tư tưởng Thiền Đốn Ngộ của Lục Tổ, đây cũng tác phẩm duy nhất được gọi là Kinh trong lịch sử Phật Giáo của một vị Tổ sư, vì trước đó Kinh thường dùng để chỉ những ghi chép về lời dạy của Phật Thích Ca.

Thời kỳ Trung Thiền(700-900)[edit]

Dưới sự giáo hóa mạnh mẽ của Lục Tổ Huệ Năng, có hơn 33 người ngộ đạo làm cho Thiền Tông như ngọn lửa bắt đầu bùng lên một cách mạnh mẽ. Trong số những môn đệ đó, 5 người đã có ảnh hưởng nhất đối với sự phát triển sau này của Thiền Tông là:

  1. Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng
  2. Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư
  3. Thiền sư Nam Dương Huệ Trung
  4. Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả bài Chứng Đạo Ca, Thiền Tông Vĩnh Gia Tập.
  5. Thiền sư Hà Trạch Thần Hội

Và đặc biệt, từ hai vị Nam Nhạc Hoài NgượngThanh Nguyên Hành Tư đã sinh ra hai vị đệ tử xuất sắc với phong cách giáo hóa Thiền độc đáo là Mã Tổ Đạo NhấtThạch Đầu Hi Thiên. Từ Mã Tổ, phong cách đánh, hét được ứng dụng vào Thiền Tông, và trở thành phương pháp đặc thù làm cho nhiều người được khai ngộ, những môn đệ xuất sắc như Bá Trượng Hoài Hải, Nam Tuyền Phổ Nguyện, Tây Đường Trí Tạng, Ma Cốc Bảo Triệt và hình thành nên Hồng Châu Thiền với lối Thiền đại cơ, đại dụng , với những đặc điểm giáo lý như: Tâm bình thường là đạo, hay Tức Tâm là Phật, sư được tôn xưng là Giang Tây Pháp Chủ. Cỏn dưới tòa giáo hóa của Thiền sư Thạch Đầu, cũng sinh ra nhiều vị Thiền sư như Dược Sơn Duy Nhiễm, Thiên Hoàng Đạo Ngộ, Đan Hà Thiên Nhiên, sư cũng được tôn xưng là pháp chủ của một vùng. Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là người đã đưa ra những Thanh quy để áp dụng sinh hoạt trong truyền thống các Thiền Viện của Thiền Tông, khiến cho Thiền Tông trở nên độc lập với nhiều Thiền viện riêng mà trước đó thường phải dựa vào các chùa thuộc Giáo Môn, mà chủ yếu là Luật Tông. Sư cũng là người đã đề ra lối lao động ở trong các Thiền viện với phương châm nổi tiếng: Một ngày không làm, một ngày không ăn để tạo nên tinh thần chủ lực, tự túc, và cũng nhờ thế mà trong nạn diệt Phật của Vua Đường Vũ Tông, trong khi nhiều tông phái bị ảnh hưởng nặng nề thì Thiền Tông vẫn đứng vững và phát triển mạnh mẽ. Về sau, Thiền Tông đã hình thành nên Ngũ Gia Thất Tông với những phương pháp tiếp dẫn người học khác nhau, nhưng mục đích tối thượng chung của những Tông này vẫn là minh tâm kiến tính, liễu thoát sinh tử:

  1. Quy Ngưỡng Tông, do môn đệ của Thiền sư Bá Trượng Hoài HảiQuy Sơn Linh Hựu và đệ tử là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch sáng lập.
  2. Lâm Tế Tông, do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập.
  3. Tào Động Tông, do hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương GiớiTào Sơn Bản Tịch sáng lập.
  4. Vân Môn Tông, do Thiền sư Vân Môn Văn Yến, đệ tử của Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn sáng lập
  5. Pháp Nhãn Tông, do Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích, môn đệ của La Hán Quế Sâm sáng lập.

Về sau, Tông Lâm Tế phát triển rực rỡ, sinh ra thêm hai Tông nữa là Dương Kỳ phái, do Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội sáng lập và Hoàng Long Phái do Thiền sư Hoàng Long Huệ Nam sáng lập.

Từ đó Thiền Tông bước vào thời kỳ hoàng kim, và lan rộng ảnh hưởng nhiều nơi ở Trung Quốc với những pháp hội Thiền Tông, các cuộc Pháp Chiến hùng hồn giữa các vị Thiền sư còn vang vọng đến ngày nay và làm cho nhiều người thích thú, và gây ấn tượng đối với các giới trí thức, quan lại thời bấy giờ như Tể tướng Bùi Hưu, tú tài Trương Chuyết, hay cư sĩ Bàng Long Uẩn, nhà thơ Bạch Cư Dị.. họ đều là những người từng đến tham vấn nơi các vị thiền sư và được đại ngộ. Thời kỳ này cũng xuất hiện những bản Ngữ Lục, ghi lại hành trạng và ngữ lục của những vị Thiền sư danh tiếng như Mã Tổ Ngữ Lục, Lâm Tế Lục, Nam Tuyền Ngữ Lục... và cuốn Bách Trượng Thanh Quy ghi lại những quy tắc sinh hoạt trong Thiền viện Thiền Tông của Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải.

Thời kỳ Nhà Tống(950-1300)[edit]

Trong thời kỳ này Thiền Tông đã định hình một cách rõ rệt và phương pháp tu tập các công án Thiền bắt đầu được ứng dụng, đây là thời kỳ tiếp nối thời kỳ hoàng kim nhà Đường. Thời Tống, Thiền Tông trở thành tông phái Phật giáo lớn nhất và có mối quan hệ sâu rộng với chính quyền. Đặc biệt, trong Tông Lâm Tế, hình thức biên tập các tác phẩm bình luận, sưu tập về các công án bắt đầu nở rộ. Lúc này Tông Quy Ngưỡng dần tàn lụi, Tông Lâm TếVân Môn vươn lên trở thành hai tông mạnh nhất thời kỳ này.

Trong thế kỷ 12, Tông Lâm TếTông Tào Động bắt đầu hình thành đường lối tu tập đặc thù riêng của mình, Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác(1091-1157), tông Tào Động nhấn mạnh đến phương pháp Thiền Mặc Chiếu,chủ trương tọa thiền để khai ngộ, phía Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo(1089-1163) thì đưa ra phương pháp Tham công án hay tinh giản hơn là Khán thoại đầu, chủ trương dùng công án, thoại đầu để gây phát khởi nghi tình,kiến tính.

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, thiền tăng Tông Pháp Nhãn là người chủ trương hợp nhất Thiền Tông và Tịnh Độ Tông và điều này cũng có ảnh hưởng nhiều đến phật giáo đời sau. Sư cũng cùng lập trường với Phong Khuê Tông Mật và cho rằng giá trị của Đạo Giáo, Nho Giáo nên hòa nhập chung với Phật Giáo, tức là tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. Thièn Tông cũng có ảnh hưởng đến nhiều nhà nhà nho học và một số phái của Đạo Giáo như phái Toàn Chân giáo.

Các bộ sưu tập công án Thiền như Bích Nham Lục, Vô Môn Quan được biên soạn vào thời kỳ này, phản ánh tính chất văn học Thiền rất cao. Thiền Tông trong thời gian này được truyền qua Nhật Bản qua nhiều vị Thiền sư thuộc Tông Lâm Tế hoặc Tào Động, hoặc qua Triều Tiên qua Thiền sư Trí Nột, người mang ảnh hưởng từ Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo.

Cảnh Đức Truyền Đăng Lục là bộ sách ghi lại hành trạng, pháp ngữ của rất nhiều vị Thiền sư từ 28 vị tổ Ấn Độ cho đến Thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích, được cho là chứa đựng 1700 tắc công án quan trọng của Thiền Tông.

Thời kỳ hậu Tống[edit]

Đến thời nhà Nguyên, truyền thống sinh hoạt tu tập Thiền tông vẫn tiếp tục được duy trì. Thời kỳ này, xảy ra sự kiện có nhiều vị đạo sĩ công kích, bài trừ Phật Giáo và cuối cùng những người này bị dập tắt, Thiền tông trở thành tông phái lãnh đạo Phật giáo tại Trung Quốc, ví dụ như Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ từng được vua nhà Nguyên đề cử lãnh đạo cả hai tôn giáo là Đạo Giáo, Phật Giáo thời bấy giờ. Thời kỳ này, Tông Vân Môn dần suy tàn, còn Tông Pháp Nhãn đã tuyệt hẳn truyền thừa tại Trung Quốc và vẫn còn tồn tại ở Triều Tiên. Thiền sư Trung Phong Minh Bản là người đã phát triển và đưa Tông Lâm Tế đi lên qua những hoạt động truyền pháp và hệ thống phương pháp tu tập Thiền Thoại đầu.

Thời nhà Minh, Phật giáo bị triều đình kiểm soát rất gắt gao, Thiền Tông vẫn đứng vững và tiếp tục duy trì truyền thống của mình, dến lúc này chỉ còn hai tông Lâm TếTào Động, trong đó Tông Lâm Tế phát triển mạnh mẽ nhất. Thời kỳ này diễn ra sự khôi phục trong hai tông này, các vị Thiền sư Tông Tào Động và Lâm Tế chủ trương khôi phục và sáng tác những tác phẩm để tôn vinh tông phái của mình lên. Nổi bật thiền sư Mật Vân Viên Ngộ chủ trương khôi phục lại các cơ phong của vị Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền như đánh, hét. Thiền sư Vân Thê Chu HoằngHám Sơn Đức Thanh chủ trương hợp nhất Thiền tông và Tịnh Độ Tông.

Đến thời nhà Thanh, Thiền tông dần suy tàn, tuy nhiên vẫn được truyền bá rộng rãi và tiếp tục lan sang nhều nước như Nhật Bản,Việt Nam.nhỏ|Thiền sư Hư Vân(1840-1959), ngôi sao Bắc Đẩu của Thiền Tồng Trung Quốc, thế kỷ 20.

Thời kỳ cận đại và hiện đại[edit]

Tại Trung Quốc, thời cận đại, Thiền sư Hư Vân , ngôi sao Bắc Đẩu của Thiền Tông Trung Quốc, đã khôi phục các Thiền viện thuộc Ngũ Gia Thất Tông và chủ trương các sinh hoạt tự viện theo truyền thống của Thiền Tông thời Minh, Thanh như: Tham Thoại Đầu, Thiền Thất, tăng gia sản xuất Nông Thiền, tổ chức tùng lâm theo tinh thần thanh quy của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải và truyền thống này vẫn được duy trì tại các thiền viện ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông cho đến ngày nay.

Trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa Trung Quốc, Thiền Tông và Phật Giáo cùng nhiều tôn giáo khác ở Trung Quốc bị đàn áp manh mẽ, nhiều chùa chiền, đền miếu, tượng Phật bị phá bỏ, tăng ni bị dánh đập và bắt hoàn tục. Dến thờ kỳ cải cách mở cửa, có nhiều ngôi chùa, thiền viện đã được khôi phục lại.

Thiền Tông Trung Quốc cũng dược truyền sang phương Tây qua các thế hệ môn dệ của Thiền sư Hư Vân như Hòa Thượng Tuyên Hóa và Thiền sư Thánh Nghiêm.

Thiền tông tại Việt Nam[edit]

nhỏ|Tháp Huệ Quang, nơi thờ xá lợi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông Phật giáo truyền vào Việt Nam từ rất sớm, trước cả Trung Quốc với trung tâm Phật giáo quan trọng tại Luy Lâu. Và theo đó, Thiền tông Ấn Độ cũng được truyền bá vào Việt Nam trước tiên, với các thiền sư như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, nổi danh tại Trung Quốc từ trước thời Bồ-đề-đạt-ma. Họ đều từng có nhiều năm tu tập tại Việt Nam trước khi truyền đạo tại Trung Quốc, chứng minh cho sự phát triển rực rỡ của Thiền tông tại Việt Nam ở thế kỷ thứ 2 và thứ 3.Tuy nhiên, đó chỉ trên phương diện Thiền Đại Thừa, chứ chưa thực sự mang đúng tinh thần của Thiền Tông.

Thiền tông Trung Quốc được truyền sang Việt Nam lần đầu bởi Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi , người gốc Ấn Độ, (zh. 毘尼多流支, sa. vinītaruci, ?-594), môn đệ Tam tổ Tăng Xán (zh. 僧璨, ?-606), thiền phái này được truyền qua 19 đời và có ảnh hưởng rát sâu rộng đối với các tầng lớp dân chúng, quý tộc. Tư tưởng chính là chú trọng tu tập theo Kinh điển Đại Thừa, Lục Độ Ba La MậtTrí tuệ Bát Nhã, các phương pháp Thiền Quán.

Sau đó, đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài HảiVô Ngôn Thông (zh. 無言通, ?-826) sang Việt Nam truyền tông chỉ Thiền Nam Tông của Lục Tổ Huệ Năng, với tính chất Dĩ Tâm Truyền Tâm và chủ trương Đốn Ngộ, thiền phái này được truyền qua 17 đời. Và cũng có ảnh hưởng rất sâu rộng trong quần chúng và giới tri thức.

Vân Môn tông được Thiền sư Thảo Đường (zh. 草堂, thế kỷ 11), đệ tử của Tuyết Đậu Trọng Hiển truyền sang Việt Nam. Thiền phái này chủ trương dung hợp giữa Phật GiáoNho Giáo nên rất gần gũi với các tầng lớp trí thức và quý tộc, điều này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật Giáo thời Trần.

Đến thời Trần, Vua Trần Nhân Tông tham vấn Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ được đốn ngộ Phật tính, sau đó nhường ngôi vua cho con và xuất gia, hoằng pháp với hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam. Là sự kết hợp và kế thừa Tư tưởng của ba thiền phái là Tỳ Ny Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường. Ba vị tổ quan trọng nhất của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.

Đến thế kỷ thứ 17, Tông Tào Động được truyền sang Việt Nam qua Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (zh. 通覺水月, 1637-1704), đời thứ 31[1], tại Miền Bắc Việt Nam, ngài từng hành cước sang Trung Quốc tham học với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo và nối pháp Tông Tào Động, chủ trương của dòng Thiền này là Thuyết Động Sơn Ngũ Vị, Thiền Mặc Chiếu. Tông Tào Động cũng được Thiền sư Thạch Liêm (zh. 石溓, 1633-1704), đời thứ 29[2] truyền qua miền Trung Việt Nam, tuy nhiên Thạch Liêm ảnh hưởng và mang đậm tư tưởng Thiền Thoại Đầu của Tông Lâm Tế và thuyết Tam Giáo Đồng Nguyên.

Thời Lê Trung Hưng, Tông Lâm Tế được hai thầy trò là Thiền sư Viên Văn Chuyết ChuyếtMinh Hành Tại Tại truyền vào Bắc Việt Nam. Từ thiền phái này đã sản sinh ra thiền sư Chân Nguyên là người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tông này cũng được Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch và các môn đồ như Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung truyền vào Miền Trung và ảnh hưởng lan rộng khắp Miền Nam Việt Nam. Thiền sư Liễu Quán Thiệt Diệu là người có ảnh hưởng nhất của dòng Thiền này.

Hơn 150 năm nay, Thiền Tông tại Việt Nam về tư tưởng đốn ngộ và các phương pháp tu tập đặc thù như Thiền công án, thoại đầu bị suy tàn và gần như không còn ảnh hưởng mấy nữa, Thiền tông bị dung nhập và thay thế bởi Tịnh Độ Tông, các sư tự nhận mình thuộc pháp hệ ở các Thiền phái hầu như đều tu theo Tịnh Độ hoặc Mật Tông, họ hầu như không biết gì về lối Thiền của chư tổ và tông chỉ, phương pháp hành trì. Hiện nay, Hòa thượng Thích Thanh Từ là người chủ trương khôi phục lại tinh thần của phái Thiền Trúc Lâm và xây dựng nhiều cơ sở Thiền viện và dạy các tăng chúng tu tập theo phương pháp Thiền Tri Vọng của Thiền sư Phong Khuê Tông Mật( tổ thứ 5 của Hoa Nghiêm Tông), hay Lục Diệu Pháp môn của Thiên Thai Tông. Và cũng có Thiền sư HT. Thích Duy Lực, đệ tử HT Thích Hoằng Tu, cao tăng người gốc Hoa sang Chợ lớn, Sài Gòn hoằng pháp, thuộc dòng Tào Động hệ phái Cổ Sơn do ngài Vĩnh Giác Nguyên Hiền sáng lập, chủ trương đào tạo các đệ tử theo phương pháp Thiền Thoại Đầu của Tông Lâm Tế, khá thịnh hành tại miền Nam Việt Nam, các băng giảng, tài liệu về Tham Thoại Đầu được xuất bản và đăng tải lên trên mạng rất nhiều và phù hợp đối với các hành giả những ai có hứng thú và ý nguyện muốn tu tập theo pháp môn này.

nhỏ|Thiền sư Duy Lực Giác Khai (1923-2000) nhỏ|Hòa thượng Thích Thanh Từ (1924- nay)

Thiền Tông tại Hàn Quốc[edit]

Thiền Tông được truyền vào Hàn Quốc từ thế kỷ 7-9 trong suốt triều đại Tân La khi 9 vị tăng Hàn Quốc( Đạo Nghĩa, Hồng Trắc, Phạm Nhật, Huệ Triết, Vô Nhiễm, Đạo Doãn, Trí Sân, Huyền Dực, Lợi Nghiêm) sang Trung Quốc tham học với các vị Thiền sư danh tiếng thời bấy giờ ở Trung Quốc như Mã Tổ Đạo Nhất, Bá Trượng Hoài Hải, Nam Tuyền Phổ Nguyện, Ma Cốc Bảo Triệt, Tây Đường Trí Tạng, Vân Cư Đạo Ưng. Sau khi đắc pháp, họ trở về Hàn Quốc và thành lập 9 thiền viện đại diện cho 9 phái Thiền, gọi chung là Cửu Sơn Thiền(九山禪).

Thế kỷ thứ 10, Tông Pháp Nhãn được truyền vào Hàn Quốc qua 30 vị cao tăng bản địa là đệ tử của Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, mang tư tưởng kết hợp giữa Thiền TôngTịnh Độ Tông. nhỏ|Chùa Tào Khê, Trụ sở chính của Tông Tào Khê Hàn Quốc tại Seoul Đến thế kỷ 13, Thiền sư Trí Nột (1158 -1210) đã hợp nhất các tông phái Thiền bản địa trong hệ thống Cửu Sơn Thiền và hình thành nên Tông Tào Khê, với chủ trương Đốn Ngộ Tiệm Tu, từ sự ảnh hưởng Tư tưởng Thiền Thoại Đầu của Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo và Thiền Giáo hợp nhất của Thiền sư Phong Khuê Tông Mật. Đến nay, Thiền Thoại Đầu vẫn là phương pháp tu tập chính trong các thiền viện thuộc Tông Tào Khê.

Vào thế kỷ 14, Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu sang Trung Quốc tham vấn với Thiền sư Thạch Ốc Thanh Củng và tiếp nhận mạch truyền thừa Tông Lâm Tế vào Đại Hàn , sư cũng là nhân vật ảnh hưởng rất lớn trong Lịch Sử Thiền Tông Hàn Quốc và vai trò to lớn trong việc xây dựng Tông Tào Khê tại Hàn Quốc. Dòng thiền của sư là dòng truyền thừa chính trong Tông Tào Khê cho đến ngày nay.

Dưới triều đại Khổng Giáo Triều Tiên(1392-1919), số lượng tự viện và tăng ni bị giảm mạnh dưới chính sách cấm đoán Phật Giáo và đưa Khổng Giáo lên làm quốc giáo. Phật giáo nói chung và Thiền nói riêng bị hạn chế hoạt động phạm vi chủ yếu ở rừng núi. Thiền sư Cảnh Hư Tinh Ngưu (Gyeongheo Seongu) đã vực dậy Thiền Phái Tào Khê trước tình trạng yếu kém và có nhiều đệ tử nối pháp xuất sắc như: Huệ Nguyệt Huệ Lâm(Hyewol Hyemyeong;1862-1937), Mãn Không Nguyệt Diện (Mangong Wolmyeo;1871-1946). Trong thời Nhật chiếm đóng, phong trào Tân Tăng được truyền bá vào Hàn Quốc, nhà cai trị Nhật Bản bắt các tăng sĩ Hàn Quốc phải cưới vợ và lập gia đình mới được vào chùa thực hiện sinh hoạt Phật Giáo, và tình trạng phá giới bắt đầu diễn ra. Một số Thiền sư Tông Tào Khê như Mãn Không (Mangong), Long Thành(Yongseong) đã phản đối chính sách này và chủ trương đào tạo các vị thiền tăng theo tinh thần nghiêm trì giới luật.

Vào năm 1954, tổng thống Lý Thừa Vãn và các Thiền sư thuộc Tông Tào Khê yêu cầu sự tách biệt giữa 300 vị tăng giữ giới và các vị sư đã kết hôn, lập gia đình. Sau đó 300 vị tăng độc thân này vẫn giữ tên là Tông Tào Khê và thay đổi màu áo cà sa, còn các vị sự kết hôn thì lập một tông mới là Tông Thái Cổ, cho phép các vị tăng được phép lấy vợ, dù không phải tất cả họ đều lấy vợ. Ngày nay, Tông Tào Khê là tông phái mạnh nhất với hơn 3000 ngôi chùa, nổi bật nhất là 3 ngôi chùa trong Tam Bảo tự , hơn 10,000 tăng ni và hơn 9 triệu tín đồ, dù vào năm 1954 chỉ có khoảng 300 vị tăng. Tiếp theo là Tông Thái Cổ với 8000 tăng, ni và 3100 ngôi chùa. Vị Thiền sư có ảnh hưởng nhất trong thời hiện đại ở Hàn Quốc là Thiền sư Tính Triệt, người được coi là Phật sống thời Hiện đại của Phật Giáo Hàn Quốc. Thiền Đại Hàn cũng được Thiền sư Sùng Sơn Hạnh Nguyên ( Seungshah; 1927-2004) truyền qua Phương Tây với tên gọi là Thiền Quán Thế Âm (Kwang Um School of Zen).

nhỏ|Thiền sư Trí Nột( Jinul;1158-1210) nhỏ|Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu(Taego Bou, 1301-1382) nhỏ|Thiền sư Cảnh Hư( Gyeongheo,1846-1912) nhỏ|Thiền sư Thối Ông Tính Triệt (Toeong Seongcheol , 1912-1993)

Thiền tông tại Nhật Bản[edit]

[[Tập tin:Dogen.jpg|nhỏ|Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền]] Trong các tông này thì có hai tông Lâm Tế và Tào Động du nhập qua Nhật trong thế kỉ 12, đầu thế kỉ 13, đến nay vẫn sinh động và còn ảnh hưởng lớn cho Thiền thời nay. Khoảng đến đời nhà Tống thì Thiền tông Trung Quốc bắt đầu suy tàn và trộn lẫn với Tịnh Độ tông trong thời nhà Minh (thế kỉ 15). Trong thời gian đó, Thiền tông đúng nghĩa với tính chất "dĩ tâm truyền tâm" được xem như là chấm dứt. Lúc đó tại Nhật, Thiền tông lại sống dậy mạnh mẽ. Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (zh. 道元希玄), người đã đưa tông Tào Động qua Nhật, cũng như Thiền sư Minh Am Vinh Tây (zh. 明菴榮西), Tâm Địa Giác Tâm (zh. 心地覺心), Nam Phố Thiệu Minh (zh. 南浦紹明) và nhiều vị khác thuộc phái Lâm Tế đã có công thiết lập dòng Thiền Nhật Bản. Giữa thế kỉ 17, Thiền sư Trung QuốcẨn Nguyên Long Kì (zh. 隱元隆琦) sang Nhật thành lập dòng Hoàng Bá, ngày nay không còn ảnh hưởng. Vị Thiền sư Nhật xuất chúng nhất phải kể là Bạch Ẩn Huệ Hạc (zh. 白隱慧鶴), thuộc dòng Lâm Tế, là người đã phục hưng Thiền Nhật Bản trong thế kỉ 18.

Thiền tông tại Phương Tây[edit]

Thiền tông chính thức truyền sang Hoa Kỳ do Thiền sư Thích Tông Diễn (zh. 釋宗演, ja. shaku sōen, cũng được gọi là Hồng Nhạc Tông Diễn 洪嶽宗演, ja. kōgaku sōen) vào năm 1893. Người có công rất lớn truyền bá rộng rãi Thiền tông ở các nước phương Tây lại là Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966), môn đệ của Thích Tông Diễn. Bộ "Thiền luận" ba tập (Essay in Zen Buddhism) do Daisetz Teitaro Suzuki viết đã rất thành công trong hai thập niên 1950 và thập niên 1960|1960. Đến nay, tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trong đó có bản dịch tiếng Việt. Hiện bản dịch này của Thích Tuệ SỹTrúc Thiên có thể được tìm thấy trên mạng Internet ở một số website về Phật giáo.

Các thực nghiệm Thiền cũng đã thay đổi để đáp ứng tư tưởng và bản năng người Tây phương. Khái niệm Zen đối với người Tây phương chẳng những đã không còn xa lạ mà còn thâm nhập cả vào nếp sinh hoạt. Hàng trăm tác phẩm văn hóa, khoa học, nghệ thuật, triết lý và thiết kế đã đặt thêm chữ "Zen" vào trong tựa đề.

  1. Xem pháp hệ truyền thừa : Tào Động tông#Truyền Thừa
  2. Xem pháp hệ truyền thừa : Tào Động tông#Truyền Thừa